Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

VĂN HÓA ẨM THỰC BIỂN: TIẾNG SÓNG VỖ TRÊN MÂM CƠM NGƯỜI VIỆT

Nguyễn Hồng Cúc
Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không
NGUYỄN VIỆT CHIẾN (Tổ quốc nhìn từ biển)
Tóm tắt: Bữa cơm truyền thống của cư dân Việt thường có cơm, rau, cá. Cá là loài thủy sản tiêu biểu mà người Việt thích ăn, ăn hàng ngày. Ngoài cá, người Việt còn mê ăn tôm, cua, ốc, hến, ngao, sò, lươn, trai… Từ cá và những loại thủy sản khác, người Việt chế ra ra nước mắm và các loại mắm thiếu nó thì không thể thành bữa cơm Việt, cũng từ đó đời sống của người Việt gắn chặt với biển. Âm thanh của tiếng sóng biển trên mâm cơm người dân Việt luôn nhắc nhở biển là của chúng ta.

Bờ biển Việt Nam dài 3.260 km tính từ phía Đông Bắc là Quảng Ninh đến phía Tây Nam là tỉnh Kiên Giang. Các vùng biển Việt Nam có thể chia thành 4 khu vực: biển nằm phía Đông Bắc Việt Nam (một phần vịnh Bắc bộ) tiếp giáp với đảo Hải Nam (Trung Quốc), biển Bắc Trung bộ nằm phía đông Việt Nam, biển Nam Trung bộ ở phía đông nam và vùng biển Tây Nam nằm phía tây nam Việt Nam tiếp giáp với Campuchia và Thái Lan.
Việt Nam nằm trải dài ven biển, có tới 26 tỉnh thành phố ven biển chiếm 42% diện tích và 45% dân số cả nước. Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển năm 1982 (UNCLOS), Việt Nam có diện tích biển khoảng 1triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích biển Đông.[1] Vùng biển Việt Nam là một khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, là ngư trường giàu có nuôi sống hàng triệu ngư dân và gia đình từ bao đời qua, là một vùng kinh tế nhiều thập kỷ phát triển năng động, là nơi hấp dẫn của các nhà đầu tư và thị trường thế giới.

      Giữa tiếng sóng biển khi êm đềm, lúc dữ dội ấy những người dân Việt Nam đã vật lộn với thiên nhiên để tồn tại. Sự  gắn bó mật thiết của người dân với biển đã tạo nên những nét văn hóa biển đặc sắc khó thể lẫn với bất cứ vùng đất nào của tổ quốc, trong đó có tập quán, văn hoá ăn uống của người dân nơi đây. Bữa cơm truyền thống của người Việt Nam thường có cơm, rau, cá. Cá là loài thủy sản tiêu biểu mà người Việt thích ăn, ăn hàng ngày. Ngoài cá, người Việt còn mê ăn tôm, cua, ốc, hến, ngao, sò, lươn, trai… Từ cá và những loại thủy sản khác, người Việt chế ra ra nước mắm và các loại mắm thiếu nó thì không thể thành bữa cơm Việt, cũng từ đó đời sống của người Việt gắn chặt với biển.
1.      Ẩm thực vùng bờ biển phía Bắc
Vùng duyên hải Bắc Bộ là vùng lãnh thổ Việt Nam ven vịnh Bắc Bộ. Vùng này bao gồm các tỉnh ven biển là Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, và Ninh Bình. Với nguồn tài nguyên hải sản phong phú, ẩm thực vùng duyên hải Bắc Bộ đa dạng, đa sắc màu và mang đậm hương vị biển.
Vùng biển Quảng Ninh nổi tiếng với món Chả mực là một đặc sản được đánh bắt trực tiếp trong khu vực biển Hạ Long. Mực tươi, thịt thơm dùng với xôi trắng. Hạt xôi khô nhưng mềm, thơm hương nếp mới quyện với mùi chả vừa béo vừa ngọt. Mực còn có thể chế biến được nhiều món như: nướng, hấp, nấu cháo, xào với mì hay rau cải. Một loài đặc sản khác vô cùng hấp dẫn của biển Hạ Long là sam biển. Từ sam biển người ta có thể chế biến ra được rất nhiều món ăn ngon khác nhau như: Tiết canh sam, gỏi sam, chân sam xào chua ngọt, sam xào xả ớt, trứng sam chiên giòn, trứng sam xào lá lốt, sam hấp, sam bao bột rán, sụn sam nướng, sam xào miến…
Hải Phòng có Bánh Đa Cua làm nên tên tuổi ẩm thực của vùng này. Mỗi bát bánh đa là sư tổng hòa các màu sắc phong phú: màu đỏ sậm của bánh đa, nâu hồng của gạch cua, đỏ tươi của cà chua, xanh non của rau rút và rau muống, xanh đậm của chả lá lốt chiên, thêm sắc vàng của chả cá và hành phi.Người Hải Phòng ăn bánh đa cua vào các buổi sáng, trưa, chiều, tối. Bún tôm cũng là món ăn đặc trưng của ẩm thực Hải Phòng, có nguyên liệu chủ đạo là bún và hải sản (thông thường là tôm). Bún phải là loại bún sợi to, tôm là tôm sú hoặc tôm giảo tươi mới đúng điệu. Người Hải Phòng cũng có thức ăn mang hương vị biển độc đáo là cơm cháy hải sản. Ngoài cơm cháy giòn, nước sốt trong món cơm của người Hải Phòng được chế biến từ các nguyên liệu hải sản từ biển quê hương như tôm, cua, mực, tu hài...Vì vậy mà món cơm cháy Hải Phòng mang hương vị rất riêng, khác biệt
Người nước ngoài đến miền Bắc Việt Nam thường rất mê những chiếc nem cua bể vuông vức, giòn rụm. Ngoài những nguyên liệu thông thường của món nem miền Bắc, nem cua bể có thêm sự có mặt của thịt cua bể, cũng là một trong những đặc sản của vùng biển quê hương. Chiếc bánh đa nem tuy giản đơn nhưng cũng phải là loại bánh tráng sản xuất theo phương pháp truyền thống địa phương, gói bọc nhân nem rồi gấp thành miếng vuông vức đẹp mắt, khi chiên lên vẫn còn nguyên hương vị đặc trưng của cua bể. Hải Phòng còn có thêm món bún cá biển là sự tận dụng tiềm năng hải sản phong phú của dân miền duyên hải là bún cá biển. Bún cá biển có vị thơm; thịt cá biển săn chắc, ngọt đậm với miếng chả cá dai ngậy.
Nhìn chung, người dân Bắc Bộ đã dùng những nguyên liệu từ biển (như cá, cua, tôm,…), để chế biến những món ăn thông dụng hàng ngày của mình. Những đặc sắc ẩm thực này còn quyến rủ cả các khách du lịch đến Việt Nam. Những món ăn ngon, bổ, lành (vì lúc nào cũng tươi ngon từ biển) đã tạo nên một nền ẩm thực biển độc đáo của dân Việt.
2.      Ẩm thực vùng bờ biển miền Trung
Duyên hải miền Trung có thế mạnh của các nguồn thủy sản và nghề đánh bắt cá. Các chuỗi quần đảo và đảo như: Hoàng Sa (Đà Nẵng); Cù Lao Chàm (Quảng Nam); Lý Sơn (Quảng Ngãi); Cù Lao Xanh, Hòn Đất, Hòn Khô, Hòn Ông Cò, Hòn Nghiêm Kinh Chiểu, Hòn Trâu, Hòn Đụn, Hòn Tranh, Hòn Rùa (Bình Định), Cù Lao Hòn Nần, Hòn Nhất Tự Sơn, Cù Lao Ông Xá, Hòn Mái Nhà, Hòn Chùa (Phú Yên); và Hòn Nội, Hòn Ngoại, Hòn Tre, Trường Sa (Khánh Hòa)… đã tạo nên một nền văn hóa giàu chất biển hơn các vùng khác của Việt Nam. Do thiên nhiên tạo nên, vùng biển miền Trung có các luồng hải lưu gần bờ, đã đem đến cho vùng biển này những luồng cá lớn đi sát bờ, nên người Việt thường chọn nghề sống với biển. Do đó, chất biển thể hiện trong văn hóa ẩm thực của người Việt ở vùng đất này rất rõ nét.
Người dân vùng duyên hải miền Trung do tiếp xúc nhiều với biển nên biết được những kiến thức khai thác biển, như sự hiểu biết về các hiện tượng tự nhiên, độ nông sâu, các loại sinh vật biển…Văn hóa biển còn thể hiện qua các nghề nuôi trồng chế biến hải sản như nghề làm mắm ruốc, mắm cá mòi, mắm cá cơm, mắm tôm,…đặc biệt là nghề làm nước mắm như nước mắm Nam Ô ở Đà Nẵng, nước mắm Phan Thiết.Hầu khắp các tỉnh ven biển Trung Bộ đều có nghề làm muối với các cánh đồng muối lớn, các hiệu muối nổi tiếng như muối Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi, muối Tuyết Diêm ở Phú Yên, muối Cà Ná ở Ninh Thuận, muối Hòn Khói ở Khánh Hòa,…
Ẩm thực của người dân vùng biển duyên hải Việt Nam mang đậm nét đặc trưng của văn hóa biển với nguồn thực phẩm chủ yếu là cá và các loại thủy hải sản. Các thực phẫm này thường được nấu chung với các gia vị cay, nồng như ớt, gừng, nghệ, hành, tỏi, tiêu, sả,…như cá biển kho dưa cà, cá biển kho tiêu, cá ngừ sốt cà…
Tại Bình Ba, là một ốc đảo nằm ngay cửa vào vịnh Cam Ranh, có những giống tôm hùm bông xanh có hương vị rất riêng và khá đặc biệt, là một trong những món đặc sản trứ danh của tỉnh này.Loại tôm hùm bông xanh ở Bình Ba nếu đem nấu cháo sẽ là một đặc sản ẩm thực. Vo gạo (gạo nàng thơm Chợ Đào, Long A) nấu cháo, tôm hùm lóc thịt để riêng (giữ vỏ và luộc chín để trang trí sau khi múc cháo ra tô cho hấp dẫn, nhất là khi đãi khách), phi hành mỡ rồi bỏ thịt tôm vào tao sơ cho có màu đỏ đẹp. Cháo gần chín, bỏ thịt tôm vào (nếu muốn cháo ngọt hơn có thể cho thêm nghêu sống, bỏ vào nồi cháo trước khi cho thịt tôm) và cho gia vị, nêm nếm vừa ăn.
Hải sản Đà Nẵng cực kì đa dạng và phong phú… Bất kể đâu du khách cũng có thể được thưởng thức những món ngon chế biến từ hải sản. Đặc biệt phải kể đến món mực cơm chiên giòn, dùng nóng kèm với tương ớt và và một ít rau quả như cà chua, dưa leo tạo thêm vị tươi mát của món ăn.
Bữa cơm gia đình nơi miền biển lồng lộng nắng gió này cũng không thể thiếu những món ngon từ sứa biển. Sứa biển bắt về ngâm nước lá ổi hay lá bàng để loại bỏ cát, mùi tanh và giúp thịt sứa săn chắc lại. Những chú sứa trắng trong, mang hơi thở nồng nàn của biển cả bao la sẽ được các bà nội trợ chế biến thành những món ngon. Gỏi sứa ăn với bánh tráng, cũng như bún sứa mà nước dùng được nấu từ cá ngừ hay cá thu điểm thêm vài lát cà chua đỏ mọng, vài lát khóm vàng tươi cùng với những miếng sứa trắng nõn nà được bày trên mặt tô bún, cùng các loại rau thơm mang hương vị nồng nàn của biển quyện với hương thơm của đất trời từ đĩa rau sống tươi ngon đậm đà tình biển.
Những ngày mùa đông, dọc các làng chài miền Trung, ngư dân thường đánh bắt được mùa cá ong. Khác với những loại cá khác ở khơi xa, cá ong được đánh bằng lưới đơn trên những chuyến ghe nhỏ gần bờ vì biển động không thể ra khơi. Cá được nấu ngọt với cà chua chín hoặc cà chua xanh kèm lát thơm chín với ít giá đỗ rồi nêm ít rau mùi, hay kho cá với tiêu ớt. Cá ong nấu cách gì ăn cũng đem lại hương vị đặc biệt. Món cá ong nấu canh chua cũng là một đặc sản của người dân xứ biển.
Cá trích tươi ngon kho giấm, ăn có vị chua chua, ngọt ngọt rất lạ miệng. Đây là món ăn dân dã nhưng rất được người dân miền Trung ưa chuộng. Phần lớn các món ăn từ cá trích đều có cách chế biến khá đơn giản, nhưng phải chọn được nguyên liệu thật tươi. Ngon nhất là những con cá còn thở thoi thóp của ngư dân vừa đánh bắt đem lên bán. Cá không to quá xương cứng khó gỡ, mà cũng không quá non, miếng cá sẽ không thơm, không dày thịt. Ăn cá trích kho giấm không thể thiếu chén nước mắm biển nguyên chất điểm xuyết thêm vài trái ớt đỏ. Giản dị và đơn sơ, nhưng nồi cá trích kho giấm luôn là món ăn được háo hức đợi chờ trong bữa cơm gia đình.
Ngư dân vùng biển Quảng Nam câu bạch tuộc khi miền Trung bắt đầu có những đợt đợt gió Lào tràn về. Bạch tuộc còn được gọi là mực trùm. Tuy không ngon và thơm bằng mực ống nhưng có tác dụng bồi bổ sức khỏe cực tốt cho những người bệnh mới ốm dậy, phụ nữ sau sinh. Bạch tuộc nướng, bạch tuộc nhúng giấm, bạch tuộc luộc cùng lá me non sẽ là sự lựa chọn tuyệt vời của dân xứ biển.
Đến với Phú Yên, những món chế biến từ cá ngừ đại dương, lườn cá ngừ nướng. Đến với Nha Trang, có món bún cá dầm đặc trưng của phố biển. Món gỏi cá mai nổi tiếng của vùng đất Ninh Thuận, món ghẹ hấp bia, ghẹ nấu măng tươi, ghẹ rang me, ghẹ nấu canh bầu…  Cá mai, cá sơn gà, là những loài cá biển là những đặc sản dùng thết đãi khách từ phương xa tới thăm; hay những người con rời quê lâu năm có dịp tìm về.
Những món ăn ngọt ngào, mát lành, thắm đượm tình yêu bao la của biển. Còn gì thú vị và để lại nỗi nhớ bằng những lần quây quần bên gia đình thưởng thức các món ngon từ  biển và lặng người nghe tiếng sóng biển rì rào, vỗ về êm ả bên tai.Chiều mùa hè, ngồi trong quán ven bờ biển, hứng ngọn gió biển ào ạt thổi vào, thưởng thức hương vị một trong những món đặc sản biển thì không gì thú bằng.
3.      Ẩm thực vùng bờ biển phía Nam
Đồng bằng sông Cửu Long có chiều dài bờ biển 732 km với nhiều cửa sông và vịnh. Biển của đồng bằng sông Cửu Long chứa đựng nhiều hải sản quí với trữ lượng cao: Tôm chiếm 50% trữ lượng tôm cả nước, cá nổi 20%, cá  đáy 32%, ngoài ra còn có hải sản quí như  đồi mồi, mực…. Biển cùa đồng bằng sông Cửu long là một kho tài nguyên khổng lồ, gồm rất nhiều các loại hải sản có giá trị cũng là cơ sở quyết định tới việc hình thành ẩm thực biển nơi đây. Sông nhiều, biển rộng nên con người chủ nhân nơi đây thấm đậm tư duy sông nước, tư duy biển cả. Văn hoá ẩm thực biển đồng bằng sông Cửu Long cũng được định hình và xây dựng trên cái nền tảng chung đó. Không chỉ là hương vị đậm đà đặc trưng mà chính những loài hải đặc sản kỳ lạ của xứ biển đã tạo nên những món ăn độc đáo, với những kĩ thuật chế biến đặc biệt, cách sử dụng và phương thức ăn uống đậm nét văn hoá địa phương thì tự nhiên từ cái chung là con cá, con tôm khi đã thành phẩm là mang nét độc đáo, một thứ đặc sản vùng mới lạ và cuốn hút. Một cách âm thầm các bà nội trợ Việt Nam đang góp công sức cho việc giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc văn hoá của ẩm thực biển Việt Nam.
Bờ biển vùng tây Nam bộ chạy qua các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bến Tre, từ những vùng này cũng có những món ăn của biển đặc biệt.
Món ăn ngon nhất cũng như cao cấp nhất của Sóc Trăng, mang đậm sắc thái văn hóa biển là món bong bóng cá đường. Bong bóng cá nấu súp hoặc chưng với đường phèn là món ăn trị bịnh. Cư dân vùng biển Mỹ Thanh trước đây nổi tiếng nghề làm bong bóng cá đường. Họ dùng dao mổ cá lấy bong bóng ra, rồi lọc lấy hết gân máu bên trong bong bóng cho hết tanh, sau đó phơi cho dẻo. Bong bóng cá đường rất to, mỗi cái nặng độ nửa ký.
Miền biển Trà Vinh phong phú thủy hải sản như tôm, cua, còng, ba khía...Vọp chong là một món ăn dân dã, là đặc sản của vùng này. Một đặc sản rất đặc trưng của vùng Trường Long Hòa- Ba Động có tên rất ấn tượng là “chù ụ”. Chù ụ thuộc họ cua... thân vuông, có hai càng to, hình dáng cục mịch, lưng ghồ ghề, chậm chạp, nhưng thịt chù ụ ăn rất ngon. Chù ụ có thể chế biến thành nhiều món ăn. Đơn giản là nướng than hồng, cũng có thể luộc như cua, ghẹ, hay hấp bia chấm muối ớt, hoặc nước mắm chua hoặc rang me, hoặc kho nghệ, xào hành...Ngoài ra, Trà Vinh còn món cá kèo kho là món ngon đặc sắc và dễ làm. 
Hải sản ở vùng biển Hà Tiên nhiều tôm, ghẹ, cá đối, đặc biệt là cá đuối. Cá đuối có hình rẻ quạt, đuôi dài, da màu xanh rêu. Cá đuối biển có nhiều loại: đuối điện, đuối én, đuối bông, đuối sen...Canh chua cá đuối ở Hòn Tre được nấu chung với sả ớt cùng với các nguyên phụ liệu thông thường, tạo nên hương vị đặc sắc mà canh chua bình thường không có được. Ngoài nấu canh chua sả ớt, cá đuối còn được ướp muối ớt rồi đem nướng. Lạ miệng hơn là món cá đuối hấp bắp chuối. Cá đuối xào lăn cũng là món ngon dùng để ăn cơm hoặc với bánh mì. Cá trích Hà Tiên béo và ngon kỳ lạ. Cá trích còn tươi được cắt đầu, đuôi, xẻ dọc hai bên thân để lấy thịt, loại bỏ xương, rồi đem ướp với gừng, tỏi băm và trộn đều với thính. Một phần cá được ép lấy nước cốt để chế làm nước chấm. Nước ép cá trích được nấu sôi lên, rót vào một ít nước mắm Phú Quốc, thêm vào những trái ớt hiểm và một ít đậu phộng rang vàng được giã sơ  thế là có một chén nước chấm đặc biệt và một dĩa gỏi cá trích thơm ngon.
Đặc biệt ở Cà Mau có con tôm xà búi là loại tôm thẻ đuôi đỏ trên biển, đem về luộc, lột vỏ, xỏ lụi, phơi khô một vài nắng làm quà tặng. Ngoài ra còn có món trứng cá là món ăn bổ dưỡng, lại dễ chế biến. Trong số trứng các loại cá như cá hồi, cá cờ, cá tầm... thì trứng cá thu luôn được ưa chuộng.
Bữa ăn mang phong cách đặc chất Nam Bộ là ngồi xếp bằng trên chiếc chiếu, trải bên đầu hè nhà, có chút gió thoang thoảng hòa quyện với mùi thơm của cua nướng, tôm lụi vừa chín tới, … như có âm thanh của tiếng sóng biển trên mâm cơm người dân Việt, để luôn nhắc nhở biển là của chúng ta.


            Thức ăn Việt Nam thường dùng các sản phẩm từ biển. Với bờ biển hàng ngàn cây số, người Việt từ xa xưa đã xem biển không những là không gian sinh tồn mà còn là khởi nguồn cho mọi hoạt động văn hóa ẩm thực biển. Từ chén nước mắm trên mâm cơm hàng ngày, từ hàng loạt cá biển như cá thu, cá ngừ, cá trích, cá từ bi, cá mú, cá cờ, cá hố, cá đổng, cá nục… đến những loại cá biển cao cấp như cá hồi, hải mã,…các loại tôm, cua, sò, hến…những món ăn đầy chất tươi, đậm đà hương vị,…đã được các bà nội trợ Việt Nam chế biến thành những món ăn ngon, tùy từng vùng, tùy từng mùa, mà ăn các loại thực phẩm biển. Biển là nguồn cung cấp thức ăn cho người Việt gần như vô tận. Biển cung cấp thức ăn từ vùng đồng bằng đến các vùng ven biển những hải sản thiên nhiên.Những món ăn đơn giản như canh chua cá trích, chiên xả, xào lăn,…thậm chí chỉ luộc chín rồi chấm muối tiêu cũng là những món ăn quen thuộc của người Việt.
            Không một người Việt nào tưởng tượng được một ngày nào đó Việt Nam mất biển. Mất biển là mất tất cả, từ những thức ăn truyền thống đến một nền kinh tế biển, đến cuộc sống của hàng triệu ngư dân sống nhờ biển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Ngô thị Thu Hương (2014),“Văn hóa biển vùng duyên hải Nam Trung bộ”, KHXHVN, H.
2. Xuân Huy (2004),Văn hóa ẩm thực và món ăn Việt Nam, Nxb Trẻ, Tp. HCM.
3. Mai Khôi (2001),Văn hóa ẩm thực Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Tp.HCM.
4. Nguyễn Đức Khoa (1993), Các món ăn dân tộc cổ truyền, Nxb Văn hóa Dân tộc, Tp. HCM
5. Nguyễn Nhã (2009), Bản sắc ẩm thực Việt Nam, Nxb Văn hóaThông Tin, Tp.HCM
6. Nguyễn Thị Diệu Thảo (2007), Giáo trình Văn hóa ẩm thực Việt Nam, Nxb Đại Học Sư Phạm, Tp.HCM
7. Trần Quốc Thịnh (2001), Văn hóa ẩm thực Kinh Bắc, Nxb Văn Hóa Thông Tin, H.




[1] Tổ quốc nơi đảo xa (2014), Nxb Văn hóa-Văn nghệ, tr 8-9

ĐỘC GIẢ THỜI GIA ĐỊNH BÁO

Nguyễn Hồng Cúc
Tóm tắt: Gia Định Báo được các nhà nghiên cứu đánh giá cao vì là tờ báo sử dụng quốc ngữ Latinh đầu tiên tại Việt Nam. Thành phần độc giả của báo chí trong giai đoạn này cũng cần được tìm hiểu để có thể giải thích sự hấp dẫn của báo chí đã lan truyền từ giai cấp trí thức bậc cao lúc ban đầu đến các tầng lớp nhân dân sau này. Từ đó, báo chí đã gây nên một phong trào mọi người biết chữ là đọc báo, gánh vác vai trò lớn trong lịch sử là vừa phát triển quốc ngữ vừa nâng cao trình độ dân trí cho người Việt.
Thời điểm lịch sử khi Gia Định báo thành lập
            Từ khi Tự Đức lên ngôi (1848-1883), Việt Nam đã trải qua rất nhiều biến cố trên các mặt quân sự, chính trị, văn hóa, giáo dục, xã hội. Về quân sự, triều đình phải đối đầu với quân lực Pháp, sau đó năm 1862 và những năm kế tiếp đã phải nhường Nam kỳ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) cho Pháp. Biến cố này đã gây sự xúc động vô cùng mãnh liệt trong lòng dân Việt. Tất cả dân Việt, nhất là giới sĩ phu đều căm phẩn người Pháp, coi bước chân của người Pháp là sự hỗn xược và là nỗi nhục nhã của một quốc gia có nguồn gốc và lịch sử kiêu hùng trong chống ngoại xâm.
Ở Nam Kỳ các sĩ phu tự tổ chức đứng lên khởi nghĩa chống Pháp ngay từ những ngày đầu đất nước bị xâm lược. Một số cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp quan trọng như:
        1.Trương Định: Năm 1859 Ông tổ chức nghĩa quân chống Pháp ở Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười, được nhân dân suy tôn là Bình Tây Đại Nguyên Soái. Ngày 20/8/1864 ông bị thương nặng, đã rút gươm tự sát tại Gò Công, bảo toàn khí tiết. Con ông là Trương Quyền rút về Châu Đốc cầm cự thêm được 6 năm.
        2.Võ Duy Dương cùng thời khởi nghĩa của trương Định, đánh Pháp trên cả một vùng rộng lớn từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Đồng Tháp, gây cho đối phương nhiều tổn thất. Cuộc khởi nghĩa thất bại khi ông mất năm 1866.
        3.Trần Tấn Kiều (Đốc Binh Kiều) đem quân về hợp tác với Võ Duy Dương và giữ chức phó tướng. Ông trấn giữ đường vào Đồng Tháp Mười từ Cai Lậy, Cái Bè. Bị trúng đạn tại Gò Tháp ông mất năm 1866.
        4. Năm 1863 Nguyễn Hữu Huân khởi nghĩa ở Bình Cách (Tân An). Năm sau (1864), ông cùng Võ Duy Dương chiêu mộ nghĩa binh để khởi nghĩa lần thứ hai, vùng Thất Sơn, An Giang. Bị bắt giam tù 5 năm, ra tù lại khởi nghĩa lần 3. Đầu năm 1875, thất trận ở Bình Cách, ông lại bị bắt, khước từ Pháp chiêu hàng và bị hành quyết ngày 19/5/1875.
        5.Nguyễn Trung Trực nổi dậy ở Tân An chỉ huy nghĩa quân đốt cháy tàu Espérance của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông (12/1861) và lập căn cứ chống Pháp vùng Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc. Năm 1886 Ông bị Pháp bắt và đưa đi hành hình.
        6. Cuộc khởi nghĩa của Quản Cơ Trần văn Thành tại Láng Linh vào năm 1867 và bị thất bại vào năm 1873. Báo Le Courrier de Saigon ra ngày 5 tháng 4 năm 1873 tường thuật: “Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa binh chiến đấu. Nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò để tăng uy thế. Bên cạnh ông còn có con trai ông hỗ trợ cho ông bắn"...  
            Như thế các phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đã bị tan rã vào những năm Pháp áp dụng chính sách dài hạn để làm thay đổi hoàn toàn xã hội Việt Nam trên phương diện văn hóa và giáo dục.
Chữ Quốc Ngữ giai đoạn này
            Dựa vào các tài liệu nghiên cứu về chữ quốc ngữ, một loại chữ đã xuất hiện tại Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ 17 do các giáo sĩ người Pháp sử dụng, dùng tiếng Latinh để phiên âm tiếng Việt. Trong tiến trình của chữ quốc ngữ từ giai đoạn không dấu đến hoàn thiện có năm dấu, khoảng năm 1645 đến 1838, từ Alexandre de Rhodes trong Tự điển Việt-Bồ-La đến Taberd với quyển Dictionarium Annammiticum Latinum, tuy nhiên, chữ quốc ngữ không được truyền bá nhiều trong dân chúng, mà còn bị ngăn cấm. Đến khi người Pháp sang Việt Nam chiếm được Nam kỳ và bắt đầu đặt nền cai trị vào năm 1862, chữ quốc ngữ lại ở một tình trạng trì trệ là loại chữ này không được dùng trong các lãnh vực nào khác ngoài việc truyền giáo của các giáo sĩ Tây phương. Nên khi người Pháp dùng báo chí trong việc thông tin và dùng chữ quốc ngữ trong Gia định báo đã gây một hiện tượng đáng ngạc nhiên với dân chúng thời bấy giờ. Chữ quốc ngữ đã vượt ra ngoài phạm vi quen thuộc của các giáo sĩ, để được phổ biến rộng rãi từ thành thị đến những thôn ấp xa xôi. Đây cũng là thời gian đánh dấu cho sự trở mình chữ quốc ngữ bắt đầu phát triển. Gia định báo được xem là tờ báo quốc ngữ đầu tiên, đồng thời mang lại cho nền văn học nước nhà một nền gió mới làm thay đổi những nề nếp cũ có quá nhiều ảnh hưởng Trung Hoa, cũng như tạo cho người dân Việt Nam một cách sống mới, hiểu biết, tham gia vào chính sự.


Ai đọc được chữ quốc ngữ giai đoạn này
Sau khi Pháp chiếm trọn vẹn 6 tỉnh Nam Kỳ, bắt đầu thực hiện các chính sách cai trị Nam Kỳ trong đó có chính sách về giáo dục, người Pháp thành lập ngay một trường dạy tiếng Pháp ở Sài Gòn để đào tạo người bản xứ làm phiên dịch. Từ đây, nền giáo dục Nam Kỳ được đặt trong sự cai quản của các Thống đốc quân sự Pháp. Bên cạnh nền giáo dục mới đang manh nha, Nho học vẫn duy trì trong tình hình ngày càng suy tàn. Đây là thời kì song hành hai nền giáo dục: cựu học (Nho học) và tân học (Tây học).
            Lúc này, hệ thống trường học công lập tại Nam Kỳ được đặt dưới quyền chỉ đạo của Nha Giám đốc Nội vụ thuộc quyền Thống đốc Nam Kỳ. Sau đó, một số cơ quan giáo dục được thành lập để quản trị, chỉ đạo và điều hành như:
- Hội đồng tư vấn học chính (Conseil Consultatif de l’Instruction Publique) được thành lập năm 1868 để giúp ý kiến cho chính quyền về các vấn đề giáo dục.
- Sở Học chính công (Service de l’Instruction Publique) được thành lập năm 1879, đưa ra chương trình giáo dục Pháp – Việt nhằm loại bỏ dần nền Hán học ở Nam Kỳ.
- Nha học chính Đông Dương (Direction de l'Instruction Publique de l'Indochine) được thành lập vào năm 1905 để nghiên cứu, sửa đổi chương trình giáo dục, do một Giám đốc người Pháp đứng đầu, chỉ đạo trực tiếp 5 Sở Giáo dục cho người bản xứ (Service de L'Enseignement Local) của Liên bang Đông Dương. Tại Nam Kỳ, Sở Giáo dục do một Chánh sở (Chef de Service) người Pháp đứng đầu.
- Hội đồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ (Conseil de Perfectionnement de l’Enseignement indigène) được thành lập ngày 3-3-1906 để nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến việc thiết lập hoặc cải tổ lại nền giáo dục đối với người Việt Nam, đưa môn tiếng Pháp và khoa học sơ đẳng vào chương trình học, duyệt các sách giáo khoa, từ điển. Tháng 4-1913 Hội đồng này đã quyết định bãi bỏ hẳn việc học chữ Hán trong các trường Pháp – Việt ở hệ cấp I và cấp bổ túc.
            Từ đây, chính quyền Nam Kỳ với các Thống đốc dân sự đã thực hiện liên tục và mạnh mẽ việc thiết lập một hệ thống giáo dục 3 cấp trên toàn Nam Kỳ theo mô hình trường học của Pháp.
            Như thế kể từ năm 1865, những trẻ em Nam kỳ và sau đó ở khắp Việt Nam, nếu muốn đi học đều phải học chương trình Pháp-Việt. Điều này đã hình thành nên những người trí thức mới theo lối Tây học, đó cũng là những độc giả đầu tiên của Gia Định báo và các báo tiếng Việt sau này

Các báo tiếng Pháp và tiếng Việt cuối thế kỷ XIX
            Hậu bán thế kỷ XIX, trong hoàn cảnh quốc phá gia vong, báo chí Việt Nam ra đời và gắn chặt với những diễn biến của lịch sử nước nhà.
            Năm 1859, Pháp chiếm thành Gia Định. Hai năm sau, ngày 29-9-1861, tờ Le Bulletin Officiel de l’Expédition de la Cochinchine (Nam Kỳ viễn chinh công báo) được xem là phương tiện để truyền đạt những luật lệ của “mẫu quốc” đến người dân Sài Gòn – Gia Định. Năm1862, Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, và cũng trong năm này, tờ báo thứ hai, Le Bulletin des Communes (Làng xã công báo), được ấn hành. Tờ báo này được in bằng tiếng Hán để có thể phổ biến trong giới quan lại người Việt vốn chưa thông thạo tiếng Pháp. Năm 1964, tờ báo tiếng Pháp Le Courrier de Saigon (Thư tín Sài Gòn) được xuất bản.
            Nhưng tiếng Pháp vẫn còn là một cách biệt lớn giữa chính quyền Pháp và dân chúng, vì vậy mà tờ báo tiếng Việt ra đời. Nó vừa là công cụ để chính quyền phổ biến thông tin, vừa là tài liệu để các viên thông ngôn, học trò trong các trường dùng để thực tập chữ quốc ngữ. Chính quyền Pháp đã cho ra báo in bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, tờ Gia Định báo ra đời giữa hai lần Pháp xâm chiếm ba tỉnh miền Đông (1962) và ba tỉnh miền Tây (1867). Gia Định báo được tài trợ bởi Thống Súy Phủ nên được phát miễn phí cho các làng, xã và trường học. Nó đã được sự ái mộ của dân chúng, rất nhiều học trò chỉ mong đợi cho tới kỳ phát báo để lấy báo đem về nhà đọc, có khi họ còn đọc to lên để cho người không biết chữ cùng nghe.
            Đến năm 1897, Gia Định báo chấm dứt hoạt động sau 32 năm(?). Tuy nhiên, trong buổi Hội thảo khoa học kỷ niệm 140 năm ngày thành lập Gia Định Báo - tờ báo Việt ngữ đầu tiên của Việt Nam nhà nghiên cứu Lê Nguyễn lại cho rằng Gia Định báo tồn tại đến ngày 31.12.1909 (tức là 44 năm), chỉ chính thức đình bản vào 01.01.1910 (?)[1].
            Sau Gia Định báo, nhà cầm quyền Pháp cũng cho phép phát hành một số báo tư nhân khác ở Nam Kỳ thuộc địa như Phan Yên báo (1898-1899) do Diệp văn Cương biên tập; Nhựt trình Nam kỳ (1883) (Le Journal de Cochinchine),Sàigòn, tuần báo ra ngày thứ bảy (bằng tiếng Pháp và tiếng Việt); Thông loại Khoá trình(1888-1889),Miscellanées ou lectures instructives pour les élèves des écoles primaires, commulales et cantonales par P.J.B. Trương vĩnh Ký; Đại nam Đồng văn Nhật báo (1892); Nông Cổ Mín Đàm(1901-1924),Causeries sur l’agriculture et le commerce, xuất bản tại Sàigòn, chủ nhiệm là Canavaggio, chủ bút là Lương khắc Ninh tự Dũ-Thúc; Đại nam Đồng văn Nhật báo, Đông cổ Tùng báo (1893); Đại việt Tân báo(1905), Nhật báo Tỉnh (1905) Le Moniteur des Provinces- Sàigòn, viết bằng tiếngViệt; Lục tỉnh Tân văn (1907-1943)…
            Như thế người Pháp đã nghĩ đến sự quan trọng của báo chí trong việc tuyên truyền và thực hiện những ý đố chính trị ngay từ lúc họ còn “chân ướt chân ráo” đến Nam kỳ (điều này đã thấy rõ qua 3 tờ báo đầu tiên). Tuy nhiên, người Pháp đã không thấy với những nội dung mới mẻ của báo chí cũng đã góp phần đưa những tri thức, tư tưởng mới vào xã hội Việt Nam thời bấy giờ, đồng thời tạo ra một lực lượng trí thức mới ở nước ta. Do đó, phải nói không ngoa rằng người dân Nam kỳ, người dân Việt Nam lúc nào cũng cầu tiến, ham học hỏi, không bao giờ từ chối các thông tin của báo chí, những ưu việt của nền văn minh Phương Tây vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
            Nhưng, thực tế Gia Định báo lúc đó quá đắt so với sự thu nhập của người dân.
Giá tiền của Gia định báo
            Trong khảo luận “Tìm hiểu Gia định báo” của Nguyễn Hải Lộc đã ghi:
            Từ số 5/1865 đến số đề ngày 2/6/1900 tất cả 7 lần thay đổi giá tiền.
            -Số 5, năm thứ nhất, ngày 15/8/1965 dưới manchette có ghi: “tờ báo này mỗi tháng Tây cứ ngày rằm in ra một lần, ai muốn mua cả năm phải trả 6 góc tư”
            -Giá biểu thứ hai ghi rõ giá mua báo dài hạn bằng đồng quan Pháp: trót năm thì giá 20 france, mua 6 tháng thì 10 france, mua 3 tháng thì 5 france (số thứ 1, năm thứ 18 ngày 11/1/1882) Giá biểu này từ số 13 năm thứ 16 ngày 15/6/1880 đã được áp dụng.
          -Đến số 21 năm thứ 18 ngày 21/6/1882 , giá báo được tính bằng đồng bạc Việt Nam: mua trót năm thì giá 4 đồng bạc, mua 6 tháng thì giá 2 đồng bạc, mua 3 tháng thì giá 1 đồng bạc.
          -Năm 1891 giá mua trọn năm lên 5 đồng, 6 tháng thì 2 đồng rưởi, 3 tháng thì 1 đồng 1 quan 2 tiền rưởi (số 1 năm thứ 27 ngày 6/2/1891).
           -Từ số 33 năm thứ 33 ngày 17/8/1897 giá bán 1 năm là 6 đồng 67, 6 tháng là 4 đồng, 3 tháng là 2 đồng và mỗi số báo là 0,17 đ.
          - Đến số 39 năm thứ 33 ngày 17/8/1897, Gia định báo có giá 1 năm 6, 67 đồng, 6 tháng 3,33 đồng, 3 tháng 1,67 đ, mỗi số 0,17 đ.
          - Số báo đề ngày 2/6/1900 là 8 đồng một năm [2].
            Một đặc điểm khác là giá tiền của mỗi số Gia định báo vẫn giữ nguyên, không lên xuống theo số trang. Thí dụ với số tiền 0,17 đồng, người đọc có thể mua một số báo 4 trang, nhưng lần khác  với số tiền này đọc giả mua được số báo 16 trang.
            Sau đây là đoạn trích trong số 1 năm thứ 27 ngày 6/1/1891 cho biết giá biểu và nơi mua bán: GIÁ MUA NHỰT TRÌNH, Ai muốn mua thì tới dinh Quan Hiệp Lý Nam kỳ, phòng thông ngôn cho người ta biên tên, mua trót năm thì giá 5 đồng bạc, mua 6 tháng thì 2 đồng rưởi, mà mua 3 tháng thì 1 đồng 1 quan 3 tiền rưởi.[3]
            Như thế giá bán một tờ Gia định báo so vi giá thời bấy giờ là quá cao. Theo quảng cáo trên Gia định báo s ra ngày 12 janvier 1881:“Có mt khonh đt th cư ti Saigon ti đường Espagne góc đường Mac Mahon, giá bán mi thước tây là mt quan năm. Như ai mun mua thì c hi ông thông phán Bollon Saigon mà mua” (Espagne - Mac Mahon là ngã tư Lê Thánh Tôn - Nam Kỳ Khi Nghĩa ngày nay). Như thế mua bốn tờ báo bằng mua một mét vuông đất ở vùng “đất bạch kim” trong hiện tại.
Độc giả thời Gia định báo
            Mặc dù không đưa ra được tài liệu cụ thể, ta có thể phỏng đoán rằng đa số độc giả của Gia định báo và các báo tiếng Việt cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là tầng lớp trí thức có cộng tác với Pháp hoặc không cộng tác với Pháp nhưng được đào tạo theo nền giáo dục phương Tây.Tầng lớp trí thức Tây học này càng ngày càng nhiều, càng lớn mạnh, tăng theo số trường, số lớp hàng năm mà người Pháp quyết tâm thiết lập nền giáo dục thuộc địa.
            Sự thất bại của các cuộc khởi nghĩa ở Nam kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung đã làm thức tỉnh các giới sĩ phu Hán học, xuất hiện một xu hướng cải cách. Việc tiếp nhận cái mới của những sĩ phu có tinh thần cải cách, họ muốn tiếp xúc trực tiếp với văn hóa và văn minh kỹ thuật hiện đại của phương Tây, họ không bảo thủ để từ bỏ việc học chữ quốc ngữ, đó cũng là một trong những độc giả của Gia định báo. Đọc báo để biết thời sự, tin tức mà đối phó với những bức nhiểu của các quan tham trong làng xã.
            Một số người thuộc giai cấp tư sản cũng là những độc giả của báo chí thời bấy giờ. Trong những trang quảng cáo,lời rao của Gia Định báo có những bài đề nghị đăng quảng cáo, lời rao cho các nhà buôn, nơi sản xuất của những người Việt Nam. Ví dụ như: Trng-sư TRN-NGUYÊN-HANH cho nhơn dân hay, tôi đã khai toà làm thy-kin ti NHÀ KHÁNH H (công -xi a-phiến c) sn lòng mà lo tt tính nhng vic ai ny xin giúp, hoc kin cáo, hoc ch phép, hoc làm đơn tuỳ theo mi vic.Có nhà t chiu đng bóng cho ti gi th sáu”(trích Gia Đnh Báo s 31 đến 37/1882)
            Hoặc lời rao: Ch Ln, ngày mng 6 septembere 1882. Li xin ai ny đng hay, thng con tôi là kỳ Phi, hc hành thì ít, hoang dâm c bc thì nhiu, như có vay mun bc tin ca ai, thì đòi ly nó, ch v chng tôi không biết ti, xin ai ny thương v chng tôi già c, thì đng cho nó vay mượn s gì hết, thì tôi ly làm cám-ơn. HÀ-MINH-CHÂU ký (tríchGia Đnh Báo s 32/1882)
            Dù không phải là một lực lượng lớn thời bấy giờ, nhưng giới kỹ nghệ gia, thầu khoán, kỹ sư và đại điền chủ vẫn là một giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản phát triển đặc biệt ở Nam kỳ có mức sống khá cao so với mức sống công nhân và nông dân, nên mới có thể đăng quảng cáo trên báo và do đó có thể là số độc giả trung thành hàng năm của báo.
            Tầng lớp trí thức tập trung ở thành thị, gồm sinh viên, giáo sư, luật sư, y sĩ, đã chịu ảnh hưởng tư tưởng tiến bộ của nước Pháp. Họ chiếm đa số độc giả thuở ấy và mãi đến ngày nay.
            Ngoài ra, Gia định báo cũng là nơi đào tạo các ký giả đầu tiên của báo chí Việt Nam. Hầu hết những người viết, đưa tin cho Gia định báo (hay những độc giả trung thành với nó), là nhng người có tên trên báo dưới danh nghĩa "người viết báo". Trong nhiều số báo ở mục lời rao có hướng dẫn cụ thể về việc các cộng tác viên muốn viết gửi tin bài cho báo phải viết phần nội dung ghi rõ ngày tháng, nơi xảy ra sự kiện, tường trình đầu cuối như thế nào và ý kiến…Điều này chứng tỏ Gia định báo không chỉ có các độc giả đọc tin tức mà còn có các độc giả muốn làm báo nữa.
            Trong bức thư của thống đốc G.Roze gửi cho Bộ trưởng bộ thuộc địa Pháp, đề ngày 29/5/1865 có đoạn viết: “những viên thanh tra đặc trách về những công việc của người dân bản xứ đã cho tôi biết rằng tờ Gia định báo đã được dân chúng ủng hộ một cách nhiệt liệt và ở nhiều địa phương những em bé biết đọc chữ quốc ngữ đã đọc báo cho cha mẹ chúng nghe…” [4]
            Dù báo được phân phối bằng cách gửi trực tiếp từ trung ương đến địa phương và chỉ giới hạn trong guồng máy chính quyền và một số tầng lớp nhà giàu và trí thức, nhưng có lẽ độc giả biết chữ quốc ngữ cũng tìm đến các cơ quan công quyền để đọc ké cho biết. Ngoài phn chính là mc công v, tp v, Gia Đnh báo còn có các mc th v, qung cáo. Ni dung các mc này là nhng li cáo dưới dng thông báo, nhn tin, b cáo, cáo phó ... và nhng li rao vt như trên các báo Pháp thi đó. Phn công v là phn chuyên v chính tr, pháp lý và công quyn. Phn này có nhim v đăng ti các sc lnh, ngh đnh, thông tư, đo lnh, ch d.... ca chính quyn Pháp và triu đình Nguyn; nhng tin v cp bng, thuyên chuyn công tác, thăng chc, h chc, bãi chc, biên bn các cuc hp ca Hi đng Qun ht, hot đng quân s. Phn tp v đ cp nhiu đến kinh tế, tôn giáo, văn hoá, xã hi... Về sau phần tạp vụ m rng thêm, và nhanh chóng trở thành phần có giá tr và sc cun hút nht của Gia Định báo. Đây là phn kho cu, ngh lun v văn hóa, đo đc, phong tc, l nghi, thơ văn, tư tưởng, lch s .v.v... Truyn bá khoa hc thc nghim - t y tế, v sinh, k thut đến vt lý, hóa hc, t nhiên hc; t tư tưởng, triết hc, đo đc, lch s đến tôn giáo, thn hc, chiêm tinh; nhng sáng tác, sưu tm, kho cu, dch thut t tiếng Hán, Pháp, Anh; nhng chuyên lun, bình ging thơ văn c, tìm hiu ch Nôm, truyn thuyết, tc ng, ca dao, c tích, ng ngôn...
            Nếu ni dung như thế thì đc gi ca Gia Đnh báo phi nhm vào đa s đc gi qun chúng ch không phi ch là tng lp quan li, trí thc theo Pháp (vì giới này chỉ cần đọc báo Pháp là có các thông tin đó)
            Gia Định báo được xem như là một sự cần thiết để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của độc giả, nên được dân chúng đón nhận một cách đặc biệt là chuyện tự nhiên. Hơn nữa tờ báo càng gần gủi với dân chúng hơn là nhờ ở chữ quốc ngữ, là một loại chữ dễ học, vì viết theo âm vận của tiếng nói, vã lại người Pháp mở trường dạy ở tận làng xã và cưởng bách việc học, nên mọi người đều có cơ hội hiểu biết thứ chữ mới này.
            Riêng về giá trị của Gia Định báo, Vũ Ngọc Phan đã viết: "Gia Định Báo đã mở đường cho báo chí ở trong miền Nam nói riêng và trên toàn quốc nói chung. Vì so với miền Bắc thì miền Nam được biết báo chí bằng quốc ngữ sớm hơn 40 năm. Ở miền Bắc, năm 1892 chỉ mới có tờ Đại nam Đồng văn Nhật báo viết bằng chữ Hán và phải chờ đến năm 1905 mới có tờ báo đầu tiên bằng quốc ngữ bên cạnh những bài bằng chữ Hán là tờ Đại việt Tân báo"[5].
            Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đánh giá cao Gia Định Báo vì nó "giúp ta hiểu được khúc quanh lịch sử của đất nước ta: từ phong kiến Á Đông chuyển sang thuộc địa nửa phong kiến, bắt đầu sử dụng quốc ngữ Latinh đồng thời học tập theo khoa học thực nghiệm tây phương"[6].
            Trong khi Pháp ngữ là ngôn ngữ chính thức của chính quyền lúc bấy giờ, thì quốc ngữ lại phát triển và trở thành ngôn ngữ của xã hội, của người dân. Nhờ các sách dịch và các báo quốc ngữ, quốc ngữ trở thành ngôn ngữ chính trong xã hội và được đại đa số nhân dân sử dụng. Các trí thức yêu nước cũng tích cực phổ biến quốc ngữ như một phương tiện vận động canh tân đất nước, mở mang dân trí và chống lại sự đô hộ của người Pháp.
            Quốc ngữ trở thành khí cụ tinh thần của người dân bị trị, nền văn hóa dân gian trước kia chỉ truyền khẩu ngày nay người dân đã có chữ viết. Vào những thập niên cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tại ba miền Việt Nam, người trí thức và bình dân đã có chung một chữ viết, thêm vào đó đã có một thế hệ trẻ sinh ra vào ở các thành thị mới phát triển theo nền văn minh Tây phương. Gia định báo, ngoài việc tạo nên một luồng văn học quốc ngữ mới, là gạch nối của các tầng lớp nhân dân, cũng đã có công lớn là tạo nên những độc giả biết yêu báo chí, biết tầm quan trọng của thông tin. Từ một ít trí thức lúc ban đầu, phát triển trong khắp hang cùng ngõ hẻm, người người đều đọc báo, coi đọc báo là một nếp văn minh, một ngày không biết tin tức thời sự là trở nên lạc hậu, lỗi thời trong xã hội. Điều này đã tạo nguồn lực và điều kiện xuất hiện các cuộc vận động văn hóa chính trị mới vừa chống Pháp giành độc lập, thích hợp hơn và hữu hiệu hơn, vừa mở đường cho việc tìm tòi một hướng đi mới cho dân tộc trong thời đại mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Hải Lộc (1972), Tìm hiểu Gia định báo, tiểu luận ban cử nhân Báo chí, viện đại học Vạn Hạnh, S.
2.Kiến thức ngày nay số 117 ngày 20/06/1995
3.Vũ Ngọc Phan (1942), Nhà văn hiện đại, Nxb Tân Dân, Hà Nội (tái bản năm 1994, Nxb Văn học, Hà Nội)
4.Tài liệu Hội thảo khoa học kỷ niệm 140 năm ngày thành lập Gia Định Báo - tờ báo Việt ngữ đầu tiên của Việt Nam, ĐH KHXh &NV TP.HCM, ngày 23/12/2005
5.Trần Thuận (2014),Thái độ sĩ phu Việt Nam thời tiếp xúc Đông Tây (từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX), nxb Tổng hợp, TPHCM.
6.Huỳnh văn Tòng (1970), Lịch sử báo chí Việt Nam, đại học Vạn Hạnh.
           



[1] Đề cập đến năm đình bản của Gia Định Báo, Lê Nguyễn cho rằng: “Trên thực tế, vào ngày 21/09/1909, Thống đốc nam Kỳ Gourbeil mới ban hành nghị định ấn định là tờ Gia Định Báo đình bản hẳn kể từ ngày 01/01/1910 ( Tập san hành chánh Nam Kỳ năm 1909-trang 3464)”. (Kiến thức ngày nay số 117 ngày 20/06/1995). Số báo sau cùng nhất do Huỳnh Văn Tòng lưu giữ, trên manchette báo in: “Năm thứ 43 - Số 40,41,42. Ngày thứ hai 11,18 và 25 Octobre 1909”. Căn cứ trên tờ báo này thì có thể thấy Gia Định Báo tồn tại 43 năm. Tuy nhiên, đây có phải là tờ báo cuối cùng không thì vẫn còn là một nghi vấn. Vấn đề khác được đặt ra là : tờ báo phát hành năm 1909, nếu đúng theo cách đánh thông thường phải là năm thứ 45, nhưng ở đây lại in năm thứ 43.
[2] Huỳnh văn Tòng (1970), Lịch sử báo chí Việt Nam, đại học Vạn Hạnh.
[3] Nguyễn Hải Lộc (1972), Tìm hiểu Gia định báo, tiểu luận ban cử nhân Báo chí, viện đại học Vạn Hạnh, S.
[4]Huỳnh văn Tòng (1970), sđd
[5] Vũ Ngọc Phan (1942), Nhà văn hiện đại, Nxb Tân Dân, Hà Nội (tái bản năm 1994, Nxb Văn học, Hà Nội)
[6]Tài liệu Hội thảo khoa học kỷ niệm 140 năm ngày thành lập Gia Định Báo - tờ báo Việt ngữ đầu tiên của Việt Nam, ĐH KHXh &NV TP.HCM, ngày 23/12/2005.

BUỔI SÁNG PHÙ DU

  11 giờ còn nằm trên giường Chat với người bạn phương xa Cảm giác cuộc đời của mỗi con người Như kiến bò trong chén Chén của tạo hó...