Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016

MÔ HÌNH ĐẠI HỌC KHÔNG VÌ LỢI NHUẬN CỦA ĐẠI HỌC RMIT VIỆT NAM

Tọa đàm “Điều kiện cho Đại học không vì lợi nhuận tại VN” do Trung tâm Nghiên cứu xã hội và giáo dục Trí Việt, Viện nghiên cứu phát triển giáo dục phối hợp tổ chức vào sáng ngày 12/05/2016 tại Thư viện Tổng hợp Tp.HCM.
Đây là một vấn đề không mới và hình như mọi người tham dự đều đồng ý với định nghĩa ĐH không vì lợi nhuận phải đạt 2 tiêu chí: Không phân chia lợi nhuận (nếu có) và không có sở hữu là cá nhân hay một tập thể (mà chỉ có Hội đồng tín chấp). Tôi cho đó là một bước tiến vì cách đây mấy năm còn tranh cải nhau chuyện này.
Nhưng, nội dung lại xoay quanh Điều kiện nào để có thể có một ĐH không vì lợi nhuận tại VN thì có tranh cải: Một số nhà khoa học giáo dục cho là phải có quy chế trước (quy chế chấp nhận có ĐH tư không vì lợi nhuận, quy chế khuyến khích các người đầu tư vào ĐH phi lợi nhuận, sự hỗ trợ cùa Nhà nước cho các trường không vì lợi nhuận như miễn thuế, ưu tiên cho vay xây cơ sở vật chất, cấp đất,…). Vài người lại cho rằng phải có con người phi lợi nhuận mới có thể thành lập Đại học phi lợi nhuận.
Trong hội thảo có một tiếng nói, nhưng hình như ít ai để ý, đó là Tổng Giám đốc kiêm Hiệu trưởng ĐH RMITVN, khẳng định trong buổi tọa đàm là Đại học RMIT VN là đại học phi lợi nhuận.
Có lẽ có nhiều người ngạc nhiên, nhưng GS Gael McDonald, khẳng định chắc chắn như thế.
Trước nhất, Bà cho biết ĐH RMIT VN được thành lập từ nguồn vốn ban đầu là 20 triệu USD của tổ chức phi lợi nhuận Atlantic Philanthospies. Từ năm thành lập 2001 đến nay, tất cả tiền lời đều đưa vào các hoạt động giáo dục của trường và trường không có một cá nhân, hay tập thể nào làm chủ.
Phương châm hoạt động của trường là:
-         ĐH phải có khả năng sinh lời để phát triển bền vững.
-         Xem xét kỷ các chi tiêu của trường, vì ban quản trị trường toàn quyền quyết định chi tiêu nên phải rất kỷ lưỡng.
-         Tăng trưởng chất lượng để tạo sự khác biệt (như giảng dạy, cơ sở vật chất, quản trị,…)
-         ĐH không vì lợi nhuận vẫn có cạnh tranh nên RMIT tập trung vào chất lượng cung cấp.
-         Không hoạt động tách biệt riêng rẻ.
-        
Vào năm 2015 trường này đã chi 72 triệu USD cho việc xây dựng hai cơ sở ở Tp.HCM và Hà Nội.
Đã đóng thuế cho Nhà Nước Việt Nam 45 triệu USD (sic)
Có nhiều loại học bổng nhưng đặc biệt là học bổng Hiệu trưởng dành cho các sinh viên có khả năng lãnh đạo, học bổng dành cho nữ sinh viên,..Tạo điều kiện cho sinh viên mở doanh nghiệp riêng…
Đại học Việt Nam thua ngay trên sân nhà.
Tôi viết về ĐH RMIT VN để gợi lên những suy nghĩ:
-ĐH RMIT VN đã hiện diện tại VN hơn 10 năm, lúc VN chưa có khái niệm về tư thục không vì lợi nhuận, nhưng đại học này đã hoạt động với tiêu chí Bất vụ lợi không chia lời cho cá nhân hay tập thể nào đó. Như thế không cần phải có quy chế của Nhà nước mới có thể thành lập ĐH không vì lợi nhuận. Không dùng tiền lời chia cho cá nhân mà đầu tư lại vào các hoạt động giáo dục của trường, không có quy chế nào cấm, không có một chính quyền nào cấm. Đây là đại học tư mà, Hội đồng điều hành có toàn quyền quyết định. Xã hội hoan hô những người bỏ công, của vào hoạt động giáo dục bất vụ lợi.
Điều này chứng tỏ việc cần thiết đầu tiên là có CON NGƯỜI KHÔNG VÌ LỢI NHUẬN MỚI CÓ THỂ CÓ ĐẠI HỌC PHI LỢI NHUẬN.
-ĐH RMIT VN vẫn chịu đóng thuế (hơn 10 năm đóng 45 triệu USD), không đòi hỏi một ưu đải nào ngoài ưu đải cho phép dạy chương trình đã được kiểm định tại Úc. Việc này không dính dáng gì đến việc là một ĐH không vì lợi nhuận phải được miễn thuế (như đòi hỏi của GS Trần Phương của ĐH Kinh Công, Hà Nội). Hình như ĐH RMIT VN đã khá sòng phẳng trong tài chính. Trong hội thảo bà Hiệu trưởng RMIT VN chỉ mong đề nghị Chính phủ VN miễn thuế theo quy chế hoạt động của một ĐH không vì lợi nhuận tại VN theo Điều lệ Đại học cuối năm 2014 (tôi có cảm tưởng Bà chỉ mong nói câu này trong hội thảo)
-Cho đến hôm nay, nếu theo quy chế giáo dục của VN thì RMIT VN chưa được công nhận là ĐH không vì lợi nhuận, nhưng trường này cứ không chia lời hàng năm thì có làm sao (không có ai bắt bỏ tù cả).
-Dù quy chế về giáo dục tư thục còn bất cập nhưng có một ĐH hoạt động không chia lời như thế tại Việt Nam tại sao ít ai ghi nhận, trong khi đó ĐH Fulbright chưa khai giảng thì đã được nhiều người ca ngợi. Điều này chứng tỏ người VN còn rất nhiều dị ứng cho một ĐH thu học phí quá cao, mà chỉ có con, cháu một tầng lớp nào đó được vào học, và thu học phí cao thì không thể phi lợi nhuận (hic). Nhưng thu học phí cao không phải là tiêu chuẩn để đánh giá là ĐH đó không phải là một ĐH phi lợi nhuận.
Có nhiều dư luận về ĐH RMIT VN. Con gái tôi có bạn học RMIT VN nói trong thời gian RMIT VN có kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất thì SV thi rớt trên 50% (vì phải đóng tiền thi lại rất nhiều). Nhưng ĐH không vì lợi nhuận không phải là một ĐH từ thiện, không thể lấy việc đóng học phí cao mà phê bình. Một phụ huynh có con học RMIT VN nói với tôi một cách hồ hởi, trường này dạy tốt và hay lắm (vì con chị ấy học giỏi được nhiều học bổng). Có nhiều bài viết về các cậu ấm, cô chiêu của sinh viên RMIT VN nhưng đó không phải là tiêu chuẩn để cho rằng ĐH RMIT VN không phi lợi nhuận.
Tôi viết về những con số được công khai trong hội thảo để thấy ĐH RMIT VN đã có một số tiền thặng dư khủng sau hơn 10 năm hoạt động để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất (những cơ sở vật chất trong mơ đối với các đại học tư cũng như công của VN). Và nhất là phương châm: tăng trưởng, chất lượng, tạo sự khác biệt để tồn tại cũng cần thiết là định hướng cho nhiều đại học tư tại VN.
Cuối cùng, theo kinh nghiệm của ĐH RMIT VN, tôi cho rằng các ĐH VN nào muốn không vì lợi nhuận thì cứ hoạt động theo phương hướng đó, chưa cần đến quy chế (vì chẳng có quy chế nào bắt phải chia lời hàng năm), chỉ có vấn đề là những người góp vốn có đồng thuận để theo chủ trương trên không? Vốn dĩ các đại học tư hiện tại bất ổn nội bộ cũng là vấn đề này.
Lúc nào những người VN có ưu tư về giáo dục cũng muốn có những nhà giáo dục chân chính làm giáo dục và không dùng đó làm phương tiện kinh doanh. Những ĐH không vì lợi nhuận, nếu có ở VN là điều đáng hoan nghênh và đáng ca ngợi. Quy chế về ĐH không vì lợi nhuận chỉ là phương tiện để hỗ trợ cho mô hình ĐH này, không phải là điều kiện cần, mà điều kiện cần là có NGUỒN NHÂN SỰ BẤT VỤ LỢI.
Nguyễn Hồng Cúc

12/05/2016

TỪ HUYỀN THOẠI YÊN TỬ ĐẾN HUYỀN THOẠI NÚI CẤM

Nguyễn Hồng Cúc

Theo Wikipedia Encyclopedia (Bách khoa từ điển Wikipedia ), huyền thoại được  dịch  từ  chữ myth bắt nguồn từ “mythos” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là một “câu chuyện”, một “ tác phẩm tự sự”. “Đó là những câu chuyện mà một nền văn hoá nhất định tin là thực, những câu chuyện này sử dụng tâm thức siêu nhiên để giải thích những hiện tượng tự nhiên, bản chất của vũ trụ và con người”.
Lịch sử Việt Nam có rất nhiều huyền thoại, từ huyền thoại Con Rồng Cháu Tiên của thời tiền sử, lập quốc đến những huyền thoại thần thánh địa linh nhân kiệt vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay.Trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam ý niệm về sự linh thiêng, huyền bí thường được đặt vào nơi núi rừng hiểm trở. Núi Yên Tử ở cực bắc và Núi Cấm một trong những ngọn núi của Thất Sơn) của cực nam đã trở thành những biểu tượng văn hóa tâm linh trong đời sống của người Việt.
Từ huyền thoại về Yên Tử    
Một trong những bộ sử đầu tiên ở nước ta còn lại đến ngày naylà An Nam chí lược của Lê Tắc đã ghi chép khá rõ về Yên Tử: “Núi Yên Tử gọi là Yên Sơn hoặc Tượng Sơn, bề cao lên quá tầng mây.Đầu niên hiệu Hoàng Hựu, nhà Tống (1049-1053), triều đình lại ban tên Tử Y Đông Uyên. Đại sư là Lý Tự Thông có dâng lên vua hải nhạc danh sơn đồ và vịnh thơ tán: Phúc Địa thứ tư tại Giao Châu là Yên Tử sơn.
Tân kỳ chóp núi nêu vài nụ,
Yểu điệu hình khe trổ một ngành.
Tiên cỡi loan qua ngồi cảnh Tịnh,
Người xem rồng xuống giỡn đầm xanh”.
Như vậy, đã có một sự xác định về mặt tâm linh nào đó tồn tại dưới thời Lý, thời Trần về bốn ngọn núi ở Bắc Bộ mà Yên Tử là phúc địa thứ tư trong bốn vùng đất được coi là “phúc địa của Giao Châu”.Yên Tử là ngọn núi thiêng, chốn tu hành tuyệt đỉnh của những người mộ đạo
Sừng sửng giữa những cánh rừng trùng điệp của khu Đông Bắc mênh mông, Yên Tử cao 1.068 mét, vút lên chon von như một vọng gác. Tên xa xưa của Yên Tử là núi Voi, bởi dáng núi giống hình con voi quay đầu về phía biển. Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn(núi mây trắng) bởi quanh năm đỉnh núi chìm trong mây trắng.
Truyền thuyết cho rằng có một người nước Tề là An Kỳ Sinh đến yên Tử vừa tu đạo, vừa luyện thuốc trường sinh, lập chùa Ông Yên còn gọi là Yên tự về sau gọi chệch thành Yên Tử như ngày nay. Từ đó, những am nhỏ, chùa lớn được xây dựng nơi đây, nổi tiếng như chùa Phù Vân. Theo sách Thiền Uyển tập anh, Thông Thiền cư sĩ, đệ tử của Ngài Thường Chiếu thuộc thế hệ thứ  XIII của dòng Thiền Vô Ngôn Thông đã tu ở chùa này vào cuối đời Lý.
Hệ thống chùa, am, tháp ở Yên Tử tập trung trên sườn phía Nam của ngọn núi, phía Tây giáp với suối Vàng và phía Đông giáp với thác Tử. Suối Vàng , thác Tử đều xuất phát từ độ cao 700mét, cạnh chùa Vân Tiêu, chảy quang co xuống chân núi, rồi hợp dòng với nhau dưới gốc cây sung cổ thụ và đổ vào suối Giải Oan. Trong hành trình lên núi Yên Tử, người ta sẽ đi qua hệ thống kiến trúc phân bố theo quan niệm đạo Phật như sao:
Giải Oan – Vân yên – Vân tiêu – Bia Phật
                              Trần gian – Lưng Trời – Cung Trời – Ngoài trời
Mỗi thắng cành đều có kèm những huyền thoại những truyền tích nhuộm màu huyền bí. Đó là huyền thoại về hang Tiền, hang Gạo, là dấu chân Phật, bàn cờ tiên, phía xa kia là câu chuyện cảm động về Vũng Chị, Vũng Em, núi Hàm Rồng, Giếng Cần… Theo nhiều tài liệu, chùa Am Vãi được xây dựng từ thời Lý nằm trong hệ thống các chùa tháp theo sườn tây Yên Tử. Tương truyền vào thời Trần có sư nữ (Công chúa nhà Trần) tu hành ở đó. Bởi vậy, chùa mới có tên là Am Vãi (Vãi có nghĩa là nữ tu hành). Ở đây có Hang Tiền và Hang Gạo. Truyền thuyết kể: Mỗi ngày hai hang chỉ chảy ra một lượng tiền và gạo đủ cho vị sư này dùng mà không chảy hơn. Đến một ngày vị sư nọ có khách, liền khơi cho hang tiền và gạo chảy ra đủ hai người dùng. Từ đó tiền và gạo ở hai hang này không bao giờ chảy ra nữa… Ngoài ra, gần khu vực chùa còn có hai giếng nước quanh năm không cạn, hai bên có hai cụm đá lớn in dấu bàn chân Phật gắn cùng những câu chuyện tâm linh.
            Không phải vô cớ khi chính các vua đầu đời Trần lại chọn Yên Tử làm nơi tu tập của mình, bởi vì các vị đó không thể không biết đó là phúc địa(đất phúc). Trong sách Văn thơ Ngô Thời Nhiệm có ghi: “Người ta thấy Điều Ngự đệ Nhất tổ đến Chùa Hoa Yêm thì bảo là Ngài xuất gia, ta (tức Ngô Thời Nhiệm) biết rằng đức Ngài lúc bấy  giờ biết xem thiên hạ là công, trong nước vô sự, nhưng ở phía bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ, chưa được an tâm. Các ý ấy không nên nói rõ, sợ người dao động. Cho nên nhằm được ngọn núi Yên Tử, phía đông nhìn về Yên Quảng, phía bắc liếc sang hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa mối lo nước ngoài xâm phạm, thật là một vị Vô lượng đại thế chí Bồ tát”
          Thật thế, Quảng Ninh là tỉnh duy nhất ở Việt Nam có đường biên giới cả trên bộ và trên biển với Trung Hoa. Sách “Đại Nam nhất thống chí” (quyển XVIII, trang 13) đã xác định vị trí địa chính trị của tỉnh Quảng Ninh như sau : “Đất nhân thế núi mà làm thành, dựa chỗ cao mà giữ hiểm, có núi để dựa, có biển vòng quanh, địa thế xa lánh mà xung yếu, trong thì giữ vững cương vực, ngoài thì khống chế đất Thanh”[1].Vị trí địa chính trị quan trọng của Quảng Ninh có tính chiến lược được xác lập qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển đất nước, một pháo đài then chốt ở vùng đông bắc, với địa hình núi non hiểm trở, biển đảo quanh co như một lá chắn sừng sửng, thuận lợi khi phòng thủ cũng như lúc tấn công. Và Yên Tử một ngọn núi cao của Quảng Ninh với đầy huyền thoại mà tổ thứ nhất của phái Trúc lâm, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã từng có 19 năm tu rất khắc nghiệt. Di tích chùa Cầm là để tưởng nhớ tới việc ngài chỉ uống nước cầm hơi, không ăn uống gì vừa để chứng tỏ nơi này vừa là địa linh để tu đắc đạo vừa để giữ nước.
          Nước Đại Việt mở rộng về phương Nam, cuối biên giới Việt Nam lại sừng sửng bảy ngọn núi hùng vĩ, một Thất sơn huyền bí với hàng trăm câu chuyện thần bí trong đó Núi Cấm tồn tại nhiều huyền thoại linh thiêng.
          Đến huyền thoại về Núi Cấm
Giữa đồng bằng Nam Bộ, Núi Cấm ở Tịnh Biên (An Giang) là ngọn núi cao nhứt, cao 716 mét, chu vi gần 30 ngàn mét. Núi còn được dân gian gọi là núi Ông Cấm, Thiên Cẩm Sơn (đẹp như gấm trời), Bạch Hổ Sơn (hổ bị mây phủ trắng). Tên chữ Khmer là Pnom Ta peil hay Pnom Popiel (núi có màu sắc sặc sỡ)
 Sách “Đại Nam nhất thống chí” được biên soạn vào cuối thế kỷ 19 miêu tả về núi Cấm: ...Thế núi cao ngất, cây cối tươi tốt, là một trong Bảy Núi. Vì núi cao nên ít người lên đến chót. Cấm Sơn hay Núi Cấm là tên gọi chính thức bằng văn tự đầu tiên xuất hiện trong sách này.
Núi Cấm có nhiều vồ (hoặc non). Theo Nguyễn Văn Hầu năm non trên núi Cấm bao gồm:
“    - Vồ Bồ Hong: cao 705 m, cao nhất. Tương truyền, vì khi xưa có nhiều côn trùng gọi là bồ hong đến đây sinh sống nên có tên này. Ở trên vồ, có tượng thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, được nhiều người đến tham quan và lễ bái.
-         Vồ Đầu: đỉnh cao đầu tiên của Núi Cấm tính từ phía Bắc, cao 584 m.
-         Vồ Bà: cao 579 m, có điện thờ Bà Chúa Xứ.
-         Vồ Ông Bướm: (hay Ông Voi) cao 480 m tương truyền xưa kia có hai người Khmer lưu lạc tên ông Bướm và ông Vôi đến cư trú, nên mới có tên như thế.
-         Vồ Thiên Tuế: cao 541 m, nơi đây trước kia là rừng cây thiên tuế.
Thực tế, núi Cấm còn có nhiều vồ hơn nữa, như Vồ Chư Thần, Vồ Cây Quế, Vồ Mồ Côi, Vồ Đá Dựng, Vồ Pháo Binh, Vồ Bạch Tượng v.v... Nhưng người ta thường chỉ nói năm non, bảy núi. Những con số bất dịch này, chắc do sự tác động của những quan niệm thần bí, siêu nhiên trong dân gian...”
Dọc theo những lối mòn từ chân núi lên tới đỉnh có nhiều nơi dừng chân tuyệt đẹp: suối Thanh Long, suối Tiên, điện Cây Quế, điện Mười Ba, điện Tam Thanh, điện Huỳnh Long, hang Ông Thẻ, hang Ông Hổ, hang Bác Vật Lang, động Thủy Liêm. Những địa điểm này đều có những huyền thoại ly kỳ được truyền tụng từ xưa đến nay.
Những giai thoại truyền thuyết từ núi Cấm qua thời gian, dân gian đã xem núi Cấm là nơi hội tụ những gì linh thiêng huyền bí mà người đời truyền tụng mà đỉnh điểm cho rằng núi Cấm là địa linh, là nơi phát xuất, khai hội Long Hoa lập đời mới. Những câu chuyện huyền bí trong núi như: các ông Đạo quy ẩn tu thành Tiên, bác vật Lưu văn Lang, một người tinh thông địa lý ở Nam kỳ bị cấm khẩu khi khám phá hang động, câu chuyện về thần Bạch Hổ hiển linh, câu chuyện về nhà sư trị rắn cắn bằng ngải, những lời nguyền về núi Cấm …Câu chuyện về Đức phật thầy Tây An đã cấm các tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương lên núi cất nhà hoặc chùa am vì sợ có người ăn ở tất sẽ gây ô uế núi non, một nơi địa linh mà Phật Thầy nhận thấy cần gìn giữ cho trong sạch.
Núi Cấm trở thành trung tâm của sự linh thiêng, huyền bi từ tâm thức người dân Nam bộ mà Thất sơn, trong đó có Núi Cấm đã hình thành nên đạo Bữu Sơn Kỳ Hương và các tôn giáo nội sinh sau này như Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa hảo.
Núi Cấm rộng lớn và có nhiều điều kỳ thú mà hiện nay là một trong những điểm du lịch nổi tiếng . Đây là điểm hành hương đặc sắc ở huyện Tịnh Biên, vào tháng giêng rất đông khách đến viếng. Khu “cao nguyên núi Cấm” là khu “lòng chảo” bằng phẳng, nằm ở độ cao khoảng 600 mét ở trung tâm núi; hồ Thủy Liêm, một cái hồ bất chợt hiện ra giữa khung cảnh núi rừng đại ngàn, là hồ nước nhân tạo rộng lớn, vừa cung cấp nước cho người dân trên núi, vừa tạo cảnh quan phục vụ du lịch..… tất cả dường như làm tôn lên vẻ đẹp huyền ảo của ngọn núi này.
Tượng Phật Di Lặc cao 33,6 mét vững chãi trên diện tích hơn 2 ha đã được công nhận là tượng Phật trên núi lớn nhứt Châu Á vào năm 2013. Là một công trình nghệ thuật tôn giáo độc đáo và đồ sộ, tượng khắc họa tinh tế gương mặt an nhiên và nụ cười từ bi của Phật, sống động và hài hòa. Bên trái tượng Phật Di Lặc là chùa Phật Lớn được ông Bảy Do - một nhân sĩ yêu nước lập vào đầu thế kỷ XIX với tên gọi là Nam Cực Đường, vừa là nơi tu hành, vừa là trụ sở bí mật của Hội Kín chống Pháp. Trong Chùa có bức tượng tạc dáng Phật ngồi kiết già rất đẹp và phúc hậu, cao 1,8 mét. Trong thời gian trước tượng này lớn hơn tượng ở các chùa xung quanh nên người dân gọi là chùa Phật Lớn.
Đối diện chùa Phật Lớn là chùa Vạn Linh, nằm bên phải tượng Phật Di Lặc. Gần chùa Vạn Linh có một con đường lên vồ Bồ Hong (đỉnh núi). Mặc dù đường khá dốc, nhưng nơi đây luôn điểm mà du khách thường không bỏ qua khi đến núi Cấm. Trên đỉnh có điện thờ Cửu Huyền, điện thờ Phật Mẫu và điện thờ Ngọc Hoàng lúc nào cũng khói hương nghi ngút.
Khí hậu trên núi Cấm chịu ảnh hưởng nhiệt đới gió mùa, vào mùa xuân, cây cối xanh tươi sản vật dồi dào, khí hậu mát mẻ trong lành.Từ trên các đỉnh cao có thể phóng tầm mắt nhìn toàn cảnh đồng lúa mênh mông đến tận vùng biển Hà Tiên và biên giới tây nam.
Với đường biên giới giáp Campuchia dài gần 100 km, mà Tịnh Biên là miền biên giới tây nam của đất nước cũng là vùng đất mới trong tiến trình mở cõi về phương Nam của cha ông ta. Tại núi Cấm, tín ngưỡng và văn hóa dân gian phát triển đa dạng, các tông phái Phật giáo và tôn giáo địa phương ra đời, nhiều truyền thuyết huyền thoại nặng yếu tố tâm linh huyền bí, đặc biệt lồng ghép với các phong trào và các cuộc khởi nghĩa yêu nước chống xâm lược.   Những cuộc kháng chiến chống Pháp do Quản cơ Trần Văn Thành kiên cường trên vùng tây nam của tổ quốc, cuộc khởi nghĩa của Ngô Lợi, trong kháng chiến chống Mỹ núi Cấm là nơi trú quân của lực lượng Giải phóng là bàn đạp bảo vệ Bảy Núi và nối thông tuyến biên giới Campuchia.
Nhà thơ Kiên giang Hà Huy Hà trong bài “Lúa sạ miền Nam” đã viết:
Bằng tay thép với đôi chân tượng đá
Những người xưa khai phá địa đàng xanh
Sừng sững Thất Sơn một dãy trường thành
Chim mõi cánh vẫn bay vào bóng mát
Ghi công đức Thoại Ngọc Hầu thuở trước
Người xưa bảo: đây là vùng đất Phước
Đất oai hùng toàn nhân kiệt, địa linh …
                                                                 

Đặc tính chung của huyền thoại Yên Tử và huyền thoại Núi Cấm
Trong nhiều thế kỷ qua, không ai có thể phủ nhận những nhân tố tích cực mà tín ngưỡng, tôn giáo đã mang lại cho đời sống văn hóa tinh thần của các dân tộc. Đóng góp của tín ngưỡng tôn giáo đối với đời sống xã hội thể hiện trong nhiều lĩnh vực. Những giá trị đạo đức tôn giáo không chỉ góp phần nâng cao nhận thức cho từng cá nhân, tín đồ mà quan trọng hơn là góp phần ổn định xã hội.
Thế kỷ thứ XIII, dân tộc ta đã đứng trước những thử thách vô cùng to lớn, tưởng chừng như không thể vượt qua được. Song, bằng tài năng đức độ của mình, các vua Trần đã động viên sự đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để đánh bại kẻ thù, đem lại sự bình yên cho dân tộc. Tư tưởng yêu nước thân dân đã trở thành nền tảng cho sự ổn định xã hội, xây dựng vương triều và phát huy nội lực để ba lần đánh bại quân xâm lược Nguyên-Mông. Sự kết hợp giữa tư tưởng Phật giáo và tư tưởng nho giáo trong chính sách nội trị đã tạo nên sự đoàn kết dân tộc, vừa thực hiện mục đích giải thoát về mặt tâm linh, tăng cường sức mạnh cho dân Việt thời bấy giờ.
Đầu thế kỷ XIX, cuộc Nam tiến của người Việt dừng lại nơi Tịnh Biên. Bên cạnh hình thức khai hoang do chính quyền tổ chức hay do người dân tự tiến hành thì những cuộc khẩn hoang do tín đồ tôn giáo Bửu sơn Kỳ hương là đáng chú ý hơn cả, nó góp phần tích cực tạo nên những yếu tố riêng biệt, đa dạng thêm cho vùng đất được gọi là địa linh này.
Cả hai vùng đất được gọi là linh thiêng đều xuất hiện hai vị Phật Việt Nam tạo nên hai môn phái Phật giáo là Phật giáo Thiền tông Trúc lâm Yên Tử mà vị giáo chủ là đức Phật hoàng Trần Nhân Tông, và tông phái Bửu Sơn Kỳ Hương, với Đức Giáo chủ là Phật Thầy Đoàn Minh Huyên. Huyền thoại về sự đắc đạo của hai vị này tại núi Yên Tử và Thất Sơn đã biến hai ngọn núi của hai tuyến đầu bắc, nam Việt Nam thành nơi Thánh Địa.
Sự phát triển của Phật giáo thời Trần đã tạo nên sắc thái riêng của nền văn hóa thời kỳ này: một đội ngũ thiền sư xuất thế để nhập thế. Cũng như thế từ vùng đất Thất Sơn huyền bí, vùng đất mà Lê văn Siêu đã viết:
“Trên mnh đt gn như tin đnh này trong vic nhào nn và tng hp mi trào lưu tư tưởng và mi đo giáo, đã có s pha trn dòng máu ca người H Tôn, người Chăm, người Phù Nam, người Thy Chân Lp, người Khmer, người Chà Và, người Tàu, người Vit ( các vùng bin và đng bng), người n Đ…Khong 1849 li có Pht Thy Tây An xut thế sáng lp ra  dòng tu Bu Sơn Kỳ Hương vi cái mng khai hi Long Hoa báo hiu mt thi Thượng Ngươn cho loài người.
“Cũng truyn thng thn bí y đã xut hin nhng giáo phái khác na, lúc bình thường thì tu hành, lúc gp biến thì chuyn thành lc lượng chính tr võ trang.
“Cái biết thn bí, nht là min Nam như vy qu đã là mt nhn thc quan đc bit ca dân tc…” [2]
          An Giang là một tỉnh cực nam của Việt Nam có đường biên giới chung với Campuchia. Quảng Ninh cũng là một tuyến đầu của vùng cực bắc giáp với Trung Hoa. Núi Yên Tử và Núi Cấm là hai ngọn núi cao nhất tại hai tỉnh thành này. Vị trí địa lý của hai ngọn núi có thể là những chốt chặn để bảo vệ biên giới.
          Điều đặc biệt là các nhà lãnh đạo từ xưa đến nay kể cả tầng lớp nhân dân đều dùng tín ngưỡng, tôn giáo để bảo vệ các nơi hiểm trở đó. Phật giáo thiền tông thời Trần ở Yên Tử có thái độ xuất xử của những người tu học (điển hình là vua Trần Nhân Tông) là thời bình thì an nhàn, tu tịnh, khi có họa xâm lăng sẳn sàng bỏ áo cà sa để ra chiến trận. Cuộc khởi nghĩa của Trần Văn Thành, một lãnh tụ của Bửu sơn Kỳ hương cũng thế, cũng đã thể hiện thái độ xuất xử của người tu học theo Phật giáo Việt Nam. Thánh nhân và anh hùng, triết lý đó hòa quyện trong mỗi người dân Việt Nam tùy thời thế cơ mà ứng xử.
          Yên Tử và Núi Cấm theo huyền thoại đều là những nơi địa linh, mà địa linh thì sinh anh kiệt. Anh kiệt để bảo vệ đất nước và Thánh nhân để xây dựng một nền văn hóa tâm linh trường cữu.
Miền bắc Việt Nam có Yên Tử, miền nam Việt Nam có Núi Cấm (một trong Thất Sơn) với những huyền thoại bàng bạc trong lịch sử tại hai vùng này để khẳng định Việt Nam cũng có Thánh linh, có những tôn giáo thuần thành từ bản sắc văn hóa Việt Nam, bản sắc văn hóa tổng hợp biết xuất xử tùy thời, tùy cơ để bảo vệ quyền độc lập, tự chủ cho đất nước.
          Điểm giống nhau cuối cùng của Núi Yên Tử và Núi Cấm là trong thời bình, hàng ngàn, hàng vạn người dân Việt mỗi năm đều hành hương đến hai vùng đất này để chiêm bái các di tích linh thiêng mà trong tâm thức nguời  Việt, còn lưu dấu một quan niệm về sự tồn tại của một thế giới siêu nhiên, làm mẫu mực cho cuộc đời này huớng tới. 

                            
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.      Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
2.      Choi Byung Wook (2011), Vùng đất Nam bộ dưới triều Minh Mạng (Southern Vietnam under the Reign of Minh Mạng), dịch: Hoàng Anh Tuấn,… Nguyễn Thừa Hỷ hiệu đính, nxb Thế Giới, H.
3.     Hà Tân Dân (1971), Tứ Ân Hiếu Nghĩa, tủ sách sưu khảo sử liệu, Phật giáo Bữu Sơn Kỳ Hương,
4.      Đại Nam Nhất thống chí(1959) dịch giả Tu Trai Nguyễn Tạo, Lục tỉnh Nam Việt, tập Thượng.
5.      Đinh văn Hạnh (1996), Bửu Sơn Kỳ Hương với cuộc kháng chiến chống Pháp- luận văn Tiến sĩ, viện KHXH TPHCM.
6.      Nguyễn văn Hầu (1955), Thất sơn mầu nhiệm, nxb Liên Chính. S.
7.      Vương Kim và Đào Hưng , Đc Pht Thy Tây An, nxb Long Hoa, S. in lần hai.
8.      Léopold Pallu de la Barrière(1888), Histoire de l`Expédition de Cochinchine en 1861, , nxb Berger-Levrault,Paris, Nancy.
9.      Sơn Nam(1992), Cá tính miền Nam,nxb Văn Hóa, H
10.  Lê văn Siêu (1964), Văn Minh Việt Nam, nxb Nam Chi Tùng Thư. S.



[1] Đại Nam nhất thống chí, nxb Lao Động
[2] Lê văn Siêu (1964), Văn Minh Việt Nam, nxb Nam Chi Tùng Thư. S.trang 67, 68

BUỔI SÁNG PHÙ DU

  11 giờ còn nằm trên giường Chat với người bạn phương xa Cảm giác cuộc đời của mỗi con người Như kiến bò trong chén Chén của tạo hó...