Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Về đại học tư bất vụ lợi

Tôi đã viết bình luận về bài này trên face của ông Giap Van Duong   http://www.thesaigontimes.vn/ nội dung như sau: Trước 1975, tại miền Nam VN có 16 trường đại học tư được thành lập. Đa số các đại học tư này đếu do các vị trong các tôn giáo quản lý và chủ trương hoàn toàn "Bất Vụ Lợi". Trong gần 20 năm (1957-1975), những trường đại học tư này tương đối thành công với chủ trương đó. Năm 1995, GS Ngô Gia Hy lập ĐH Hùng Vương cũng với chủ trương bất vụ lợi, sau đó trường này bị chiếm và ngày hôm nay tai tiếng vang dội trong giới giáo dục. Như thế không có nghĩa "bất vụ lợi trong giáo dục" đã không từng thành công tại VN, nhưng cũng là do lòng tham con người.

Nhưng The Saigontimes đã kiểm duyệt chỉ còn:
" Tại miền Nam Việt Nam trước 1975 có 16 đại học tư, đa số là do các tôn giáo thành lập và chưa bao giờ đặt ra vấn đề lợi nhuận.  Tôi đồng ý giáo dục không phải là môi trường kinh doanh, nhưng thật khó khi nói về "bất vụ lợi" trong một xã hội đầy vụ lợi.
Tuy nhiên, cũng xin nhắc lại là miền Nam Việt Nam trước đây đã có những trường đại học tư bất vụ lợi và cũng rất thành công."

Cho đến hôm nay cái phần phía sau vụ đại học Hùng Vương vẫn chưa được làm sáng tỏ. Mới nhắc đến một tí đã xóa rồi. Làm thế nào mà "Mở miệng" về xây dựng giáo dục VN !!!!


Đại học tư thục phi lợi nhuận: Vì sao họ làm được còn chúng ta thì chưa?
Nguyễn Vạn Phú
Thứ Năm,  27/3/2014, 10:21 (GMT+7)
http://www.thesaigontimes.vn/
 

 

 

 


TBKTSG) - LTS: Xây dựng và đưa vào hoạt động thành công một trường đại học tư thục phi lợi nhuận đúng nghĩa ở Việt Nam là một công việc khó khăn; còn mô hình đại học tư vì lợi nhuận cũng không tránh được những xung đột quyền lợi như các vụ tranh chấp vừa diễn ra đã cho thấy. Chúng tôi mời các chuyên gia nặng lòng với nền giáo dục đại học nước nhà ngồi lại qua một bàn tròn để tìm ra một mô hình thích hợp, ít nhất ở góc độ nguyên lý hoạt động. Tham gia bàn tròn lần này gồm TS. Huỳnh Thế Du (Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright) và TS. Giáp Văn Dương (mô hình đại học trực tuyến GiapSchool).
Môi trường giáo dục nào cho phép người ta “mua danh” thì nền giáo dục đó có khả năng phát triển. Ngược lại, sẽ là thảm họa nếu giáo dục là nơi để một số ít người kiếm lợi.
Ông Huỳnh Thế Du

Giáo dục có thể mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư, như danh tiếng, mong muốn cống hiến, ý nghĩa cuộc sống... nhưng không nên trực tiếp là tiền.
Ông Giáp Văn Dương
TBKTSG: Vì sao ở các nước mô hình trường đại học tư thục phi lợi nhuận thành công còn ở nước ta vẫn trầm trầy trầm trật? Rõ ràng vốn không phải là vấn đề lớn?
- Ông Huỳnh Thế Du: Có nhiều yếu tố, nhưng ở đây tôi xin nêu ra vấn đề huy động nguồn lực tài chính.
Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, con người có lẽ ai cũng vì hai chữ lợi - danh. Ít ai có động cơ làm một việc gì đó mà thiếu vắng cả hai điều này. Một điều gì đó thành công cũng đều gắn với lợi hoặc danh hoặc cả hai.
Môi trường giáo dục nào cho phép người ta “mua danh” thì nền giáo dục đó có khả năng phát triển, nhất là giáo dục đại học. Ngược lại, sẽ là thảm họa nếu giáo dục là nơi để một số ít người kiếm lợi.
Các đại học ở Hoa Kỳ là một trường hợp thành công điển hình trong việc huy động nguồn lực tài chính trong xã hội nhờ việc “bán danh”. Hầu hết các trường đại học thành công và có uy tín nhất ở đây đều là những trường tư phi lợi nhuận. Không ai được chia lợi nhuận nhưng rất nhiều mạnh thường quân đã đóng góp những khoản tài chính khổng lồ. Đơn giản là họ được lưu danh ở đó.
- Ông Giáp Văn Dương: Tôi cho rằng có mấy yếu tố để đảm bảo một đại học tư thục thành công, là: Con người, vốn đầu tư, động cơ làm việc và văn hóa xã hội.
Con người ở đây là thầy và trò. Các trường tư thục ở ta thiếu trầm trọng về đội ngũ giảng viên. Mang danh một đại học mà đội ngũ, khoan nói đến chất lượng, có khi chỉ có vài người cơ hữu, còn phần lớn là giảng viên về hưu hoặc kiêm nhiệm thêm. Nếu nhìn vào danh sách 207 ngành bị Bộ Giáo dục và Đào tạo từng yêu cầu dừng tuyển sinh do không đáp ứng được tiêu chí có một tiến sĩ và ba thạc sĩ thì thấy các trường tư thục cũng chiếm một phần khá. Còn trò thì cũng rất yếu. Các trường phải vét tận đáy, mà vẫn không đủ sinh viên nhập học. Như vậy thì làm sao có thể thành công?
Về vốn đầu tư thì nói chung là nhỏ lẻ, không đến tầm. Nhìn vào chương trình đào tạo sẽ thấy hầu hết là những ngành dạy chay, không cần đầu tư máy móc thiết bị. Trường sở thì chủ yếu đi thuê, nay đây mai đó. Có trường tuyển sinh đào tạo cả chục năm rồi mà vẫn chưa có phòng ốc riêng.
Văn hóa xã hội ở ta cũng không mặn mà gì với giáo dục ngoài công lập. Tư nhân, nói chung vẫn bị phân biệt đối xử với nhà nước. Mà tâm lý người dân nói chung, sau mấy chục năm bao cấp, cũng thích bám vào nhà nước hơn. Việc chỉ chăm chăm chạy vào biên chế, bất chấp lương thấp, không phát huy được hết khả năng là một ví dụ.
Nhưng đáng ngại nhất là động cơ của việc mở trường đại học. Vẫn có những động cơ trong sáng, vô vị lợi. Nhưng phần lớn mở trường không phải để giảng dạy, mà để... chiếm đất. Được cấp đất rồi, chỉ cần một tờ trình chuyển đổi mục đích sử dụng là sẽ thành dự án khác ngay tắp lự. Tức mở trường chỉ là một cái cớ, để hợp lý hóa các dự án bất động sản đã được ủ sẵn. Vì thế, khi thị trường bất động sản chùng xuống thì cũng chẳng ai còn hứng thú gì với việc mở trường nữa.
Tất cả những điều này làm cho chất lượng đào tạo của các trường ngoài công lập thấp, tạo một cái vòng luẩn quẩn, làm cho thầy chán, trò chán, nhà tuyển dụng chán, nhà quản lý và xã hội không tin tưởng, nên các trường đại học tư thục rất khó thành công.
TBKTSG: Nhưng có một lưu ý thú vị là trong khi các trường đại học tư thục không thành công, thì các trường mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, thậm chí cả trung học phổ thông lại khá thành công, theo nghĩa tự chủ được tài chính và được xã hội tín nhiệm, dù mức học phí rất cao. Bậc học càng thấp thì trường tư thục càng được đánh giá cao. Vậy đâu là nguyên nhân của sự khác biệt này?
- Ông Giáp Văn Dương: Rõ ràng giáo dục ở bậc phổ thông và đại học khác hẳn nhau về chất. Với bậc học thấp, chỉ cần cơ sở vật chất tốt và tác phong thân thiện là đã đáp ứng được yêu cầu của phụ huynh học sinh. Chuyên môn không đòi hỏi đặc biệt lắm, nhiều thầy cô đáp ứng được nên có thể tuyển được nhiều giảng viên giỏi. Nhưng ở bậc đại học thì không. Cơ sở vật chất chỉ là một phần của câu chuyện, mà chất lượng giảng viên, nội dung chương trình, uy tín của nhà trường với xã hội mới là cái quyết định. Những điều này đòi hỏi đầu tư tốn kém, cả thời gian và tiền bạc, và bị kiểm chứng nhãn tiền thông qua thị trường lao động, nên hầu hết các trường tư thục không đáp ứng được. Đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự thất bại của nhà trường.
TBKTSG: Có hay không khả năng huy động vốn theo dạng endowment (hiến tặng) ở Việt Nam? Động cơ nào cho các nhà đầu tư bỏ tiền cho một dự án đại học mà chắc chắn không bao giờ họ thu lại được vốn bỏ ra? Như thế trường thuộc sở hữu của ai?
- Ông Huỳnh Thế Du: Nhìn vào các đại học tư thục thành công như ở Mỹ sẽ thấy ít nhất hai yếu tố tạo ra sự thành công trong việc huy động vốn theo dạng endowment.
Thứ nhất, hầu hết các cơ sở vật chất của trường đều mang tên một hay một nhóm người nào đó mà đa phần là tên của các nhà tài trợ hay những cá nhân có đóng góp cho sự phát triển của trường. Đây là khuyến khích có thể nói là quan trọng hàng đầu để nhiều người quyên góp hoặc tự bỏ tiền ra xây trường.
John Harvard, người được vinh dự lấy tên đặt cho ngôi trường được xem là thành công nhất thế giới hiện nay, chỉ là một người quyên góp tài sản cho trường sau hai năm thành lập. Trường hợp của Stanford hay Vanderbilt thì quá rõ ràng. Hai tỉ phú này đã bỏ tiền ra xây và lấy tên mình đặt tên cho ngôi trường.
Thứ hai, với một xã hội công dân cởi mở, ai cũng có thể được công nhận hay tôn vinh nhờ việc cho đi của mình nên thói quen cho đi hay làm từ thiện đã ngấm vào máu của không ít người. Trong môi trường này, nhiều người nhận ra rằng thành công mà họ có được là nhờ sự giúp đỡ của rất nhiều cá nhân và tổ chức. Trong đó, những nơi dạy dỗ họ là có ý nghĩa nhất. Do vậy, nhận được nhiều thì cho đi cũng là điều phải phép.
Đóng góp của cựu học viên có một vai trò rất lớn ở nhiều trường. Ví dụ, có đến 60% cựu sinh viên của Princeton đóng góp về mặt tài chính cho trường; năm 2012, các cựu sinh viên đã đóng góp hơn 1 tỉ đô la cho Stanford, và phần đóng góp của cựu sinh viên chiếm một tỷ phần không nhỏ trong endowment gần 40 tỉ đô la của Harvard hiện nay.
- Ông Giáp Văn Dương: Đây là vấn đề văn hóa, hơn là vấn đề giáo dục. Endowment quen thuộc với văn hóa Âu Mỹ, nhưng khá xa lạ với văn hóa phương Đông, lại càng xa lạ với văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam thích đầu tư hoặc dành dụm cho con cháu dòng họ hơn là cho cộng đồng. Trách nhiệm xã hội vẫn còn là một khái niệm rất mới, chưa đi vào thực tế. Chắc phải khá lâu nữa mới có sự chuyển trách nhiệm từ gia tộc sang cộng đồng.
Còn trường thuộc sở hữu của ai cũng là câu hỏi hay. Nếu động cơ là gây dựng danh tiếng cho cá nhân, thì tất nhiên trường sẽ được thiết kế để sở hữu thuộc về cá nhân đó. Còn nếu động cơ là phát triển cộng đồng, thì trường sẽ thuộc sở hữu của cộng đồng. Nhà đầu tư khi đó chỉ là người khởi tạo ban đầu, có khi một vài năm sau đã không còn dính dáng gì đến hoạt động của trường rồi.
TBKTSG: Giai đoạn đầu có thể nào tạm thời chấp nhận loại hình trường tư vì lợi nhuận rồi hy vọng sau đó dần dần chuyển chúng thành phi lợi nhuận?
- Ông Giáp Văn Dương: Tôi rất nghi ngờ khả năng này. Cá nhân tôi cho rằng, giáo dục nói chung không phải là nơi để kiếm lợi nhuận. Giáo dục có thể mang lại nhiều lợi ích cho nhà đầu tư, như danh tiếng, mong muốn cống hiến, ý nghĩa cuộc sống... nhưng không nên trực tiếp là tiền.
- Ông Huỳnh Thế Du: Tôi cũng rất nghi ngờ khả năng này. Cũng có một số trường vì mục tiêu lợi nhuận thành công như Đại học Phoenix ở Mỹ chẳng hạn. Tuy nhiên, khi trường đang ăn nên làm ra thì chẳng có lý do gì để cổ đông từ bỏ lợi ích tài chính của mình.
Vấn đề ở chỗ là khả năng trở thành nơi bán bằng của các đại học vì lợi nhuận rất cao. Ngay cả ở thiên đường của thị trường tự do như ở Mỹ cũng có rất nhiều ý kiến chỉ trích mô hình này. Không ít người ở Việt Nam đã “tốt nghiệp” từ những cỗ máy bán bằng như vậy.
TBKTSG: Chính sách nhà nước nên như thế nào để kích thích sự ra đời của loại hình trường đại học tư phi lợi nhuận?
- Ông Huỳnh Thế Du: Nếu bây giờ Việt Nam có cơ chế để các cá nhân khi cho đi tài sản của mình có thể được lưu danh cộng với việc tạo ra một môi trường học thuật thực sự tự do thì trong tương lai có một đại học “Lê Văn A” nào đó lừng danh thế giới là hoàn toàn có thể.
Giáo dục là nơi có thể tạo ra danh dễ và tốt nhất. Do vậy, nên để cho các mạnh thường quân có cơ hội lưu danh thay vì tạo cơ hội cho một số ít kiếm chác như hiện nay.
Một vấn đề rất lớn trong cơ chế hiện tại là coi trường học như công ty cổ phần với các quyết định được dựa trên tỷ lệ sở hữu. Trong một xã hội trọng bằng cấp và khó phân biệt được vàng thau thì khả năng trục lợi bằng việc “bán bằng” là rất có thể. 
- Ông Giáp Văn Dương: Việc đầu tiên Nhà nước có thể làm là không phân biệt đối xử. Các đại học công đều được đầu tư, nhưng các đại học tư thì hầu như không. Thứ hai là có chính sách ghi nhận và khuyến khích các cá nhân hiến tặng tài sản của mình cho giáo dục. Và thứ ba là để các trường tự chủ tối đa trong việc phát triển, nhưng giám sát chất lượng chặt chẽ, để chất lượng đào tạo của đại học tư không thua kém đại học công. Không cần nhiều như hiện giờ mà chỉ cần vài trường tư thục thật tốt là được rồi.
TBKTSG: Rốt cuộc các trường dù phi lợi nhuận vẫn phải đào tạo các môn do nhu cầu thị trường chứ khó lòng đi theo hướng đại học nghiên cứu hay đại học liberal arts (nhân văn). Làm sao giải quyết điều này? Mức học phí từ 30-50% chi phí đào tạo thì làm sao gia đình bình thường có thể kham nổi?
- Ông Giáp Văn Dương: Thị  trường lao động biến đổi rất nhanh. Chạy theo thị trường lao động không phải lúc nào cũng hay. Việc thừa thãi cử nhân kinh tế, tài chính, quản trị kinh doanh hiện giờ là một ví dụ. Viễn cảnh đào tạo những ngành nghề, dịch vụ còn chưa xuất hiện cũng là điều các đại học phải cân nhắc. Vì thế, tôi cho rằng, các đại học cần định tâm làm đúng chức năng của mình: nơi khám phá và truyền bá tri thức, hơn là chạy theo những nhu cầu cụ thể của thị trường.
- Ông Huỳnh Thế Du: Vai trò của hướng nghiệp được không ít người nhắc đến. Tuy nhiên trên thực tế, rất khó để sinh viên, nhất là học sinh cấp 3 biết mình muốn gì và nên học ngành gì cho dù các em được hướng dẫn hay tư vấn rất kỹ như ở một số nước phát triển. 
Trên thực tế, hầu hết học sinh thường lựa chọn theo tâm lý đám đông. Bản chất cuộc sống là những cuộc chạy đua lên đỉnh. Những ngành đang được thị trường ưa chuộng thì nhiều người rỉ tai nhau nộp hồ sơ và có nhiều ứng viên tốt. Ngược lại những ngành thu nhập thấp hay khó tìm việc làm thì ít ai muốn học, trừ một số ít thực sự đam mê.
Đánh vào hầu bao cá nhân là giải pháp trong trường hợp này. Những ngành nhiều người có thể trang trải chi phí thì để cho thị trường quyết định và Nhà nước chỉ trợ cấp phần tương ứng với ngoại tác tích cực mà chúng tạo ra. Đối với những ngành có ích cho xã hội nhưng không có nhiều người học thì cần khuyến khích.
Trường hợp ngành sư phạm là một ví dụ rất rõ ở nước ta. Đầu thập niên 1990, sư phạm được đối xử như những ngành khác trong lúc kinh tế đang lên, sư phạm thì khó kiếm việc và những ngành khác thì thu thập cao. Hậu quả là “chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm” để tạo ra một thế hệ giáo viên với nhiều người rất kém. Tuy nhiên, khi chính sách miễn giảm học phí được áp dụng thì sư phạm đã được ưa chuộng hơn rất nhiều.
Một mấu chốt quan trọng đối với giáo dục Việt Nam hiện nay là cần có những người làm chính sách có độ nhạy với thị trường và tầm nhìn dài hạn. Ở đâu thì giáo dục cũng cần vai trò và trợ cấp của Nhà nước cho dù là trường công hay trường tư. Do vậy, các nhà hoạch định chính sách cần biết các xu hướng của thị trường và nhu cầu của nền kinh tế để có những quyết định phân bổ nguồn lực phù hợp chứ không nên có tâm lý “con đẻ hay con nuôi”.

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

MỘT BỨC THƯ

Thú thật lời đề nghị của anh để viết về vai trò của các sinh viên Cách Mạng trong các trường đại học tư tại Sài Gòn trước 1975 làm tôi phân vân.
Trong mắt tôi, một người học đại học trước 1975, họ có nhiều ưu điểm nhưng cũng nhiều khuyết điểm.
Ưu điểm thì đã quá nhiều sách báo nói rồi vì từ 40 năm nay, những người này đã giữ nhiều chức vụ cao trong chính quyền và đã viết về họ một cách quá đầy đủ, đầy đủ hơn cả mức đầy đủ nữa.
Những người quen của tôi, những người bạn của tôi xuất thân từ những sinh viên này đều đã giữ những chức vụ cao. Tuy nhiên phải thú thật rằng những đặc tính ưu việt trong thời chiến lại biến thành những nhược điểm trong thời bình, theo nhận xét của tôi.
Tôi không thích nói về chiến tranh nữa. Thật sự, tôi không muốn khơi gợi lại cái cuộc chiến mà dân Việt chịu đựng 20 năm, nhất là ảnh hưởng của nó trong giáo dục. Tôi muốn nhìn giáo dục là chính nó, không chịu bất cứ một quyền lực chính trị hay tôn giáo nào. Tôi muốn trẻ con được tự do suy nghĩ theo kiểu của chúng nó đừng gò ép nó vào một quan điểm hay khuynh hướng nào của người lớn. Tôi muốn chúng nó sống hồn nhiên.
Tôi không thể chịu đựng được khi một NCS phát biểu ý kiến về việc đặt tên cho một cuộc chiến tranh ở Việt Nam phải căn cứ trên chủ nghĩa Marx. Có cái quái gì về mối quan hệ biện chứng qua lại của việc đặt tên một cuộc chiến tranh VN với chủ nghĩa Marx? Cho nên có lẽ khi tôi viết về TỰ TRỊ ĐẠI HỌC tôi sẽ viết về vấn đề này. Tự do học thuật trong môi trường giáo dục đại học.
Vài nét cho anh biết vai trò của những người này trong môi trường đại học theo nhận xét của tôi:
- Đó là những người lớn tuổi hơn cái tuổi 18 được nhận vào đại học. Không nghiêm nghị lắm nhưng họ có một nét mặt lúc nào cũng bí mật. Tôi nói nét mặt nhé, không phải là hành vi bí mật đâu. Nét mặt bí mật ngầm một chút kiêu hảnh là ta đang không phải chỉ cứu nước Việt Nam mà còn “cứu cả thế giới”. Họ vào trường đại học quan sát các sinh viên chung quanh, nhận ra những sinh viên nào chăm học, những sinh viên nào thích phản ứng giáo sư, sinh viên nào nghèo, xa nhà, những người nhà giàu đi học. Họ phân loại sinh viên để xem có thể tiếp xúc với những loại sinh viên nào. Có một số sinh viên rất hảnh diện được họ rỉ tai để mời đi hội họp, mời vào một sinh hoạt đoàn thể nào đó và mời đi biểu tình.
- Đó là những sinh viên “ít” ngồi trong lớp, hoặc chỉ ngồi trong lớp những tiết giảng của các giáo sư thân chính quyền. Họ không ghi chép gì (chỉ loại sinh viên chăm học, “cù lần” mới ghi chép). Họ lắng nghe và họ quan sát. Vai trò quan trọng nhất của họ là nghe giáo sư nào chống Cộng là ngày mai có một số báo đối lập với chính quyền viết bài về ông giáo sư đó. Ví dụ như Linh mục Bữu Dưỡng (người sáng lập ra viện đại học Minh Đức) giảng về môn học trong Tứ Thư là quyển sách Đại học thì lúc nào cũng có mặt những người này,…Dù rằng trên các giảng đường đại học, nền học thuật có vẽ … tự do, ít nhuốm màu chính trị, và không ai ca ngợi Mỹ … thái quá, chỉ cổ vũ hòa bình. Giáo sư Nguyễn văn Trung giảng về Triết học Marx, cả phòng chật cứng sinh viên. Chưa bao giờ vị giáo sư này chê triết học Marx nữa câu, chỉ dám nói về khái niệm vong thân trong triết học.
- Những sinh viên này làm cầu nối  những người xa lạ tứ hướng trong đại học biết nhau nhiều hơn vì họ tổ chức các buổi sinh hoạt văn nghệ, báo tường, tập san (in roneo),…truyền tay nhau đọc các tin tức trong trường, và không bị kiểm duyệt.
- Mọi người sẽ hỏi các sinh viên bình thường, các giáo sư có biết những sinh viên Cách mạng này không? Biết chứ, nhưng chuyện đó của công an, không ai bận tâm đi mách lẽo, ai làm gì mặc ai, sinh viên Cách mạng nằm vùng chống chinh quyền thì chính quyền tự bắt, một đôi khi sinh viên còn…bao che cho vì thấy… “tội nghiệp”, vì họ cũng là thanh niên như mình mà.

- Tuy nhiên, vì không “chịu” học hành, mà đến giảng đường với những mục đích khác, nên khi thi cuối học kỳ những sinh viên này thường bị trượt. Thời đó, trượt một năm đại học là theo luật tổng động viên, phải đi…lính. Thế là có những bài báo kêu rêu là: “Đại học Vạn Hạnh đánh trượt 80% sinh viên” “Sinh viên Vạn Hạnh xin viện trưởng ra tay cứu giúp”




Về mặt học thuật các giáo sư có quyền cho điểm thấp các bài không đạt yêu cầu, cần thiết thì xin phúc khảo, nhưng các “sinh viên” làm lớn chuyện cho rằng vì lý do ủng hộ chuyện bắt lính nên các giáo sư cho họ rớt, chấm bài gắt gao. Thật khổ tâm. Và báo chí lúc nào cũng bênh vực “sinh viên”
Không phải các giáo sư ai cũng theo Cách Mạng, thích Hòa Bình vì phần đông họ đều du học ở Mỹ hoặc Pháp. Nhưng vì tinh thần khách quan của học thuật giáo dục đại học cũng như lòng yêu nước, công với việc…không muốn “mích lòng sinh viên” nên họ không quảng bá cách sống Mỹ, chính trị Mỹ quá lộ liễu, mà đề cao văn hóa dân tộc và bảo vệ nền văn hóa truyền thống VN.
Và cuối cùng, đó là những sinh viên chợt thoáng chợt hiện trong giảng đường, và ngày mai thấy tên, hình của họ trong những tòa án Quân sự, bị bắt vào các trại giam, bị đày đi Côn Đảo… Họ không có một cuộc sống của thời thanh niên như các thanh niên khác.
Họ đang là nạn nhân của những căn bệnh của một thời thanh niên luôn âu lo, trốn tránh, tù đày. Trong hiện tại một số trong những người này đang khoắc khoải vì mục đích “cứu quốc!” và “cứu thế!” của họ trước kia. Do đó tôi ghét chiến tranh, tôi không muốn nhắc hoài về những cuộc chiến.

NHÂN ĐỌC SÁCH VỀ “NHÀ GIÁO, NHÀ SỬ HỌC ĐỖ VĂN NHUNG”

Đại học Quốc Gia TPHCM, trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn-Khoa Lịch Sử, nxb Tổng hợp TPHCM, 2012.
Vài hàng cảm nghĩ
Tôi đã học thầy Nhung vào những năm thầy chưa được phong hàm PGS, nhưng nghe các giảng viên có học vị học hàm trong khoa kính trọng thầy lắm lắm. Mà, kính trọng cũng là phải vì kiến thức của thầy về lịch sử, không chỉ là lịch sử thế giới đến lịch sử Việt Nam cũng rất phong phú, đầy tràn. Tôi dùng chữ đầy tràn ở đây có nghĩa là nếu bấm nút vào vấn đề gì thì…thầy cũng có thể tuôn tràn ra kiến thức, những kiến thức do kinh nghiệm, do tự sáng tạo chứ không phải do…sách vỡ. Điều này làm hấp dẫn chúng tôi, những sinh viên của thời mở cửa he hé, mở cửa he hé để dạy các lớp đại học chỉ ghi danh, không thi cử gì. Do đó sinh viên có những người trên 70, 60, 50, 40,… những thành phần ham học bị bít lối vào khóa chính quy vì quá tuổi, tham gia học. Do thành phần sinh viên…phức tạp như thế, muốn cho họ nể phục thì phải rất …cứng khi đứng trên bục giảng. Thầy Nhung là một trong những giảng viên như thế lúc bấy giờ.
Tôi nợ thầy Nhung nhiều thứ. Thứ nhất khi làm luận văn tốt nghiệp. Thú thật khi đó tôi ngán lịch sử Việt Nam vì nó…cứng ngắt, một chiều quá (bây giờ đở hơn rồi) nên phải chọn lịch sử thế giới … dễ chịu hơn. Với một ít sách và tài liệu trong tủ sách tại nhà, tôi chọn Kinh tế Campuchia thời Sihanouk. Trời, khi tôi chọn như thế, có nghĩa tôi phải khen ngợi vào thời gian Sihanouk trị vì Campuchia, nền kinh tế nước này cực thịnh, mà tôi có bằng cớ chứng minh cực thịnh thật. Lúc này ông Hoàng Campuchia chưa về nước còn đang ở Trung Quốc (cuộc chiến tranh Việt Nam-Trung quốc chưa xóa được trong lòng người Việt). Hunsen đang được ngợi ca. Tôi leo lên lưng cọp khi chọn đề tài này và đề nghị thầy Nhung hướng dẫn. Thế là viết. Viết mươi trang đến nhà đưa cho thầy. Những trang nháp được sửa đỏ loe đỏ loét… “Chị muốn chết hay sao mà viết như thế này”…Tôi tranh luận, nhưng cũng phải sửa cho luận văn nhẹ nhàng hơn…Và, khi ra hội đồng thầy bênh vực quan điểm của tôi đến nơi đến chốn, hẳn nhiên nhờ thầy cũng được thông qua.
Cái quái dị của tôi là thích chọn các nước trung lập. Lần thứ hai, khi học ở Viện Khoa học Xã hội phía Nam, tôi lại lò mò đến đề nghị thầy hướng dẫn tiểu luận Cao học về “Ảnh hưởng thuyết bất bạo động của Gandhi vào phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ”. Lần này cũng “Chị muốn chết hay sao mà viết như thế này”…cũng bị sửa đỏ loe đỏ loét ngay từ trang đầu,…May mà tôi chưa hỏi thầy câu tôi hỏi giáo sư Trần văn Giàu (thầy Giàu cũng hướng dẫn tôi để tài này do GS Mặc Đường giới thiệu): tại sao Việt Nam không theo thuyết bất bạo động của Gandhi để tránh đổ máu nhiều quá khi giành độc lập dân tộc? (thầy Giàu nói là lúc đó thầy được bác Hồ cử qua Ấn Độ gặp thánh Gandhi). Thầy Giàu cười. Tôi cũng cười. Sau đó tôi phải dừng lại và làm luận văn thạc sĩ về lịch sử Việt Nam cận hiện đại. Tôi đã viết về xong đề tài về Ấn Độ này nhưng cất trong tủ sách.
Như thế, tôi có được bằng cử nhân cũng nhờ cây cao bóng cả của thầy Nhung. Bởi lẽ nếu không có thầy, tôi sẽ bỏ luận văn hoặc sẽ viết về một đề tài mà tôi không thích. Hai thứ tôi đều không muốn.
Cái cây cao bóng cả ấy gặp tôi ở đại học Hùng Vương. Tôi lại bạo gan một lần nữa đề nghị thầy đổi mới phương pháp giảng dạy theo ý Giáo sư Ngô Gia Hy (lúc đó là hiệu trưởng trường, một người có nghiên cứu về phương pháp dạy đại học ở Âu Mỹ từ trước). Đúng là tôi điếc không sợ súng, dám đề nghị một vị đã dạy đại học 50 năm thay đổi phương pháp dạy là cho sinh viên đề tài và để sinh viên thuyết trình trong các buổi học. Thầy không phản ứng, chỉ nói là sẽ học cái gì qua những buổi thuyết trình đó, sinh viên cũng chỉ chép từ sách ra, không có gì mới…Những lần gặp sau đó thầy quên mất sự “vô phép” của tôi, còn ân cần khuyến khích tôi học thêm nữa.
Đấy là những kỷ niệm của tôi về thầy Đỗ văn Nhung. Tôi kính trọng thầy từ đầu không vì những học hàm thầy được phong sau này. Tôi chỉ nhớ khi tôi hỏi thầy sao thầy không viết nhiều sách để in, thầy bảo: nếu viết đúng sự thật thì không thể in được, thôi thì đừng viết là hơn…


Nguyễn Hồng Cúc
2013

  Ở NHÀ MỘT MÌNH ( Không giống phim ở nhà một mình của cậu bé 7 tuổi mà là bà già 70 tuổi ở nhà một mình để tránh virus Covid 19)   ...