Tôi
có một bà mẹ chồng. Bà Tư. Tôi gọi
như vậy vì chồng tôi cũng gọi bà là
bà Tư. Tôi không biết chồng tôi đã
gọi người sanh ra anh ấy là bà Tư từ lúc
nào, chỉ biết khi tôi quen anh ấy, thì được
giới thiệu “ bà Tư là mẹ ruột của anh !”
Mười
bảy tuổi tôi quen anh. Anh lớn hơn tôi mười
tuổi, có sự nghiệp, không lớn lắm, nhưng đó
là người đàn ông từng trãi, có
vị trí trong xã hội. Lúc đó, về
gia đình anh ấy, tôi biết một cách lơ mơ.
Không chú ý nhiều, vì tôi còn
trẻ quá, chỉ biết yêu anh; và cũng vì
anh tự lập quá, không lệ thuộc gia đình.Sống
tự do. Chỉ nhớ rằng, vài lần tôi đến thăm
anh, có một bà lớn tuổi, vóc người nhỏ
nhắn, hoạt bát, nhanh nhẹn, đi tới lui thu dọn
phòng cuả anh ấy, mang thật nhiều trái cây,
quà bánh đến, vui vẽ mời tôi : “ cháu
ăn cho vui !”.
Anh
và tôi thản nhiên ngồi “ chén “ hết
mọi thứ trên bàn, để bà làm việc.
Tôi
vô tâm đến mức nhìn bà Tư giặt giũ
quần áo của anh ấy; có khi bà nấu cho
chúng tôi ăn. Tôi không phụ giúp
gì. Anh ấy cũng không bảo tôi giúp đở
bà Tư. Phần tôi thì e dè, chưa dám
thú nhận tình cảm của mình với người
trong gia đình anh ấy…Thế là chúng tôi
cứ líu ríu nói chuyện linh tinh về văn
học nghệ thuật. Vừa ăn quà của bà Tư, anh
ấy vừa thuyết phục tôi về một vấn đề nào
đó, khoe một bài thơ, hay một bài xã
luận của anh đăng báo.
Lúc
đó, bà Tư nhìn tôi như một người
bạn của con trai bà. Không phân biệt nam,nữ,
chỉ biết con trai bà vui vì có bạn. Bà
mong con trai bà có vợ không? Hình như
có. Nhưng bà không xen vào chuyện đó.
Cô nào cũng được , miễn nó ưng là
bà chịu liền, cho có người cột chân, cột
cẳng và chăm sóc con trai bà.
Tôi
không nhớ trong khoảng thời gian chúng tôi
yêu nhau, tôi đã mua hay tặng bà vật
gì, hay mua riêng cho bà một thức ăn nào,
trái cây nào bà thích. Tôi
chỉ nhớ, tôi đã ăn ké quà của bà
cho con trai không kể xiết: mùa chôm chôm,
có chôm chôm, mùa xoài ,bà
mua xoài, nhãn, sầu riêng, mãng cầu,
bánh ngọt, khoai ,…nghĩa là đủ thứ ở chợ
có bán , mỗi khi bà đến thăm anh ấy. Bà
mang đến, và tôi được ăn, nếu tôi có
mặt, còn không, anh để dành cho tôi.
Thuở
ấy, bà Tư làm nghề bán cẩm thạch. Bà
mang đến khoe với anh, bà đã mua những chiếc
vòng cẩm thạch giá rẻ, những chiếc nhẫn
ngọc bích, những mặt dây chuyền hình trái
tim, hình đức Phật … Thế là anh ấy xin, (nếu
lúc đó bà có tiền), hoặc gởi lại
nửa vốn (nếu bà nói hết tiền), và để
dành … tặng tôi. Đôi khi bà bắt gặp
tôi đeo nó, chiếc nhẫn bằng ngọc bích,
chiếc vòng xinh xắn có màu xanh biếc, bà
giả vờ không nhận ra. Có lẽ bà sợ tôi
e ngại, nhưng tôi bắt gặp ánh mắt tinh quái
của bà nhìn anh ấy cảm thông. Cứ nhớ nụ
cười chúm chím của anh khi thấy ánh mắt
đó, và thái độ giả lãng nói
chuyện khác của anh,…lòng tôi ngập tràn
vừa hạnh phúc, vừa xấu hổ.
Tôi
sống ngụp lặn trong tình yêu, tình yêu
của hai người, một người đàn ông và
một bà mẹ tinh tế hiểu biết, cả quãng đời
son trẻ của mình.
Sau
ngày thống nhất, tôi xách quần áo về
nhà bà Tư ở, không cưới hỏi, không
tuyên hôn. Gia đình tôi phản đối, bạn
bè tôi dè bỉu. Nhưng, lúc này,
anh ấy nghèo rồi, bà Tư cũng nghèo rồi,
và cả ba, bà Tư, anh ấy và tôi đều
chỉ chuộng tấm lòng chứ không chuộng tờ khế
ước mà xã hội qui định.
Hai
mươi tư tuổi, tôi vẫn là trẻ con, vì
được che chở trong vòng tay của anh. Anh lo cho tôi
mọi thứ. Nuôi tôi đi học đại học, sắm từng
món nữ trang, chăm chút cho quần áo, sách
vở, cả về mặt tư tưởng… Tôi như cái bóng
của anh . Anh trao vào tay tôi những ước mơ của
anh, và, như thế, cả gia đình anh không ai
có thể “đụng“vào tôi. Khi nhận tình
yêu của anh, tôi quên mất người thân
chung quanh, cả người thân của tôi lẫn người
thân của anh. Tôi sống lặn hụp trong tình
yêu đó, và chỉ biết anh là duy nhất
trên đời.
Tôi
quên cả chính tôi. Mọi thứ cho anh. Tôi
quên cả bà Tư, vì bà Tư cũng chỉ
biết có anh ấy. Tôi chưa bao giờ nhớ rằng tôi
đã nhắc nhở chồng tôi hay bản thân tôi
mua một món quà nào gởi tặng bà Tư
sau những chuyến đi xa, và cũng chẳng có những
món quà trong dịp lễ, tết. Tôi đã
từng xin tiền bà Tư, nhưng không nhớ mình
đã gửi bà tiền lần nào chưa…?!!!
Tôi
cứ vô tâm, chồng tôi cứ vô tâm
cho đến ngày chồng tôi mất… và cho đến
ngày bà Tư mất.
Tôi
không nhớ bà Tư đã có bao giờ trách
chúng tôi điều này, nhưng hình như bà
cho rằng đó là điều tự nhiên, tự nhiên
như “ nước mắt chảy xuống “. Không đòi
trả ơn, hay không thèm đòi hỏi gì
hơn ở những đứa con đã tự mãn khi thành
đạt. Bà không đòi tôi một bổn phận,
một trách nhiệm nào đối với bà. Bà
chỉ muốn tôi mang niềm vui đến cho con bà.
Chỉ
riêng tôi là một người dâu không
được bà Tư dạy buôn bán, tuy rằng sau
nầy, khi chồng tôi mất, tôi đã áp
dụng rất nhiều nghệ thuật buôn bán của bà
mà tôi học lóm được trong khoảng thời
gian dài sống trong gia đình chồng.
Các
cô con dâu khác của bà đều phải đi
theo bà buôn bán tại chợ. Bà tạo
dựng cho từng người “ để nó có tiền giúp
đỡ chồng nó”, bà gây vốn cho từng đứa,
“ để chúng nó tự lập”. Bà thương
dâu như thương con gái. Tôi cứ nghĩ như vậy
vì chồng tôi không có chị em gái.
Quay trước, ngó sau, bà có bốn con trai và
một ông chồng. Đơn thân độc mã trong gia
đình toàn đàn ông, nên bà
quý các cô dâu lắm. Không biết
nếu bà có con gái, bà sẽ thương nó
như thế nào, nhưng bà Tư lo cho con dâu thì
… trên cả tuyệt vời. Cho nó vốn, tìm
cho nó việc làm. Nó thất bại, gây
dựng lại cái khác. Chắt chiu, gom góp mua
cho vợ chồng chú Tư căn nhà. Vợ chú Tư
làm đầu thảo hui, hụi vỡ, bán nhà. Bà
giúp cho mua căn nhà nhỏ hơn, lại vỡ hụi, rồi
…quay về sống với bà. Căn nhà nhỏ chứa vợ
chồng đứa cháu nội, con người trai cả . Bố nó
mất lúc nó ba tuổi, mẹ nó lấy chồng
khác, đem về cho ông bà nội nuôi…
Tôi
biết rằng mẹ chồng tôi thương tôi vì tôi
thương chồng tôi. Khi chồng tôi mất, bà là
người phản đối gia đình khi họ đề nghị tôi
trở về nhà tôi để giành lại căn phòng
của chúng tôi. Bà đã bênh tôi
và là người chảy nước mắt nhìn sự
đau khổ của tôi. Tôi không biết có
sống được hay không, nếu không có bà
sau khi chồng tôi mất.
Tôi thật sự cô đơn. Mẹ tôi đã
mất. Gia đình tôi đã không đồng ý
khi tôi về nhà anh ấy, nên tôi không
muốn trở lại gia đình. Chỉ có
bà Tư bên cạnh. Hai người chở nhau, lang thang
đi tìm thuê nhà để tôi được yên
ổn sống. Hơn một năm, cuối cùng tôi phải
quay về, sửa lại căn nhà được
thừa tự và làm việc, gây dựng lại mọi
thứ. Sống một mình trong căn nhà rộng thênh
thang, tôi năn nỉ bà ở lại
với tôi, nhưng, bà còn “ tụi nhỏ”; cái
“ tụi nhỏ” đã sắp làm ông bà
nội, bà ngoại, vẫn còn vướng víu quanh
chân bà.
Nếu mẹ tôi còn sống,
mẹ cũng thương tôi, nhưng không chia xẻ hết nỗi
đau của tôi. Tôi và bà Tư, hai người
cùng yêu một người đàn ông, và
cùng một nỗi đau xé lòng khi người đó
nằm xuống. Tôi biết bà đã rất thương
chồng tôi. Bà chịu đựng chồng tôi đủ
mọi chuyện, những cơn bực tức, những ước muốn lập
dị của anh …Chồng tôi đã trưởng thành
mà vẫn còn “ nũng nịu ” với mẹ. Có
khi tôi nghe anh quát lại bà, nếu bà
tỏ ra tình cảm quá trong công việc nào
đó. Cũng có khi tôi bắt gặp nét mặt
sung sướng, ánh mắt rạng ngời của bà ngồi
phía sau xe chồng tôi. Nét mặt tự mãn
của một bà mẹ sung sướng vì đứa con của
mình thành đạt và đang dang lưng, dang tay
chở che cho mình.
Có
khi tôi có cảm tưởng bà Tư lặng ngắm
chồng tôi với niềm hạnh phúc tự hào.
Người đàn ông đẹp trai, hoạt bát, tinh
tế kia lại là con trai của bà. Đó là
máu, là thịt, là xương của bà, bà
đã tạo tác ra. Đối với bà, chồng tôi
là một tác phẩm hoàn hảo nhất, đã
khiến đôi lúc bà ngỡ ngàng, ngạc
nhiên … Con trai của bà được như thế này
ư ! Hình như đó là của Tiên, của
Phật, của Thánh Thần nào đó. Bà
không dám xưng mẹ với chồng tôi. Thuở
nhỏ, chồng tôi khó nuôi, bà mang ký
gửi cho một nhà sư và vị này đã
bảo bà phải xưng hô như thế, chồng tôi
mới có thể sống lâu được. Để đến hôm
nay, sự hy sinh cuả bà được đáp trả bằng
hình hài khôi ngô kia, lúc nào
cũng dang rộng tay che chở cho bà …
Nhưng,
đứa con đã nằm xuống trước bà mẹ, không
thể che chở cho mẹ được suốt đời… đã bỏ đi
xa lơ, xa lắc, đi vĩnh viễn rồi …
Tôi
không biết bà Tư đã thương tôi ở
điểm nào ? Tôi về sống với bà với tính
trẻ con, không hiểu biết … Bà không răn
dạy tôi điều gì. Không nói ra, nhưng
tôi nghĩ là, bà chỉ cần tôi yêu
con bà, hy sinh cho con bà, tạo cho con bà
hạnh phúc là…bà thương tôi. Thế
thôi. Đơn giản thế thôi. Tôi biết thế,
tôi cảm nhận được như thế.
Khi
đứng trước phòng mổ chờ ca mổ ung thư bao tử
của bà, tôi chợt chạnh lòng, chợt biết
rằng mình chỉ còn một người thân duy
nhất. Người đó thông cảm tôi, hiểu biết
tôi, và thương tôi không vụ lợi. Tôi
không thể chia xẻ gì đuợc với mẹ chồng tôi
nỗi đau thể xác cũng như tinh thần. Tôi đứng
ngoài. Suốt đời tôi đứng ngoài nhìn
bà Tư, có cảm thông nhưng không biết
gì hay không biết làm gì để sớt
chia nỗi đau của bà. Tôi bất lực nhìn bà
oằn oại trong những cơn đau. Những người trong bệnh
viện thấy tôi chăm sóc bà, cứ ngỡ tôi
là con gái của bà. Họ hỏi tôi “
tại sao gọi là bà Tư ?” Tôi lặng thinh.
Ngôn ngữ trần gian bất toàn để có thể
giải thích những gì thuộc về tâm linh,
cũng như nó không biểu tượng được gì
hết nếu trong đó không có tấm lòng.
Tôi
chưa bao giờ gọi bà Tư bằng Mẹ. Nhưng, tôi
biết tôi thương bà như thương mẹ tôi. Có
thể vì tôi yêu chồng tôi, nhưng, lớn
hơn, cao hơn vì tôi cảm phục đức độ và
tấm lòng của bà đối với tôi. Bà
mẹ chồng đầy lòng vị tha…