Nguyễn Thị Hồng Cúc
Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia II hiện đang bảo quản các nguồn tài liệu quan trọng của chế độ Việt Nam Cộng hòa.
Nguồn tài liệu này được xếp trong các Phông Lưu trữ, như: Phông Phủ Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa (PTTĐICH); Phông Phủ Thủ tướng Quốc gia Việt Nam (PTTQGVN); Phông Phủ Thủ tướng VNCH (PTTVNCH); Phông Hội đồng Quân nhân Cách mạng (HĐQNCM); Phông Cơ quan Viện trợ quốc tế Hoa Kỳ (CQVTQTHK), Phông Phủ Tổng thống Đệ nhị Cộng hòa (PTTĐIICH). Bài viết sau
đây được lấy trong những tài liệu của các Phông Lưu trữ này. Hy vọng rằng các
nhà nghiên cứu khi cần tìm hiểu các hoạt động của miền Nam Việt Nam (giai đoạn
1954 - 1975) sẽ khai thác các tài liệu lịch sử quan trọng tại Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia II cũng như các Trung tâm Lưu trữ Quốc gia khác của Việt Nam.
I. Các đại học công
và tư tại miền Nam VN giai đoạn 1954 - 1975
Giáo dục đại học ở miền Nam Việt Nam chỉ bắt đầu từ cuối năm 1946
như một chi nhánh của Đại học Đông Dương Hà Nội. Nền đại học này đã trải qua một giai đoạn chuyển tiếp
trong những năm đầu của thập niên 50, và sau đó dần dần phát triển, gồm có Ðại học Quốc gia,
Ðại học Cộng đồng Ðịa phương, và 16 trường đại học tư lớn nhỏ [1].
Ðại học cấp quốc gia gồm có:
-
Viện Đại học Sài Gòn có 9 đại học thành viên là Đại
học Y khoa, Đại học Nha khoa, Đại học Dược
khoa, Đại học Sư phạm, Đại học Khoa học: gồm có 15 ban, Đại học Văn khoa có các
ban Việt văn, Việt Hán, Triết học, Sử Địa, Nhân chủng học, Pháp văn, Anh văn, Đại
học Luật, Đại học Kiến Trúc [2], Hải
học viện Nha Trang.
- Viện đại học Huế gồm có 5 phân khoa là đại học Khoa học, đại học Luật khoa, đại học Văn khoa, đại học Sư
phạm và đại học Y khoa.
- Viện Đại học Cần
Thơ gồm 5 phân khoa: Văn khoa, Luật khoa và Khoa học xã hội, Sư phạm, Khoa học
và Canh nông.
-
Học viện Quốc gia Hành chánh trực
thuộc Phủ Thủ tướng.
-
Trường Võ bị Quốc gia Ðà Lạt trực thuộc Bộ Quốc phòng.
- Viện đại học Bách khoa Thủ Đức gồm có 7 đại học thành
viên là Đại học Kỹ thuật
(tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật
Phú Thọ), Đại học Nông nghiệp
(tiền thân là Trung tâm Quốc gia Nông – Lâm – Súc), Đại học Giáo dục (tiền thân là Trung
tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật), Đại học
Kinh Thương, đại học Khoa học Cơ bản, đại học Thiết kế Thị Thôn, đại học Cao cấp (tiếng Anh: College of Graduate Studies),
điều phối các chương trình đào tạo bậc cao
học và tiến sĩ [3].
Ðại học Cộng đồng địa phương như Viện Đại
học Cộng đồng Quảng Ðà [4] , Đại học
Cộng đồng Nha Trang hay Viện Đại học Cộng đồng Duyên hải, Viện Đại học Cộng đồng Tiền Giang Mỹ Tho[5]
Ðại học Cộng đồng Long Hồ-Vĩnh Long, Ðại học Cộng đồng Ban Mê Thuột.
Những đại học tư
như Viện Đại học Đà Lạt [6], Viện Đại
học Vạn Hạnh [7], Viện Đại học Cao Đài, Viện Đại
học Minh Đức [8], Viện Đại
học Hòa Hảo [9], Đại học
Dân Trí [10], Viện đại học
Bảo Lộc tại Saigon [11],
Viện Đại học Phương Nam [12], Học viện Cộng
đồng Régina Pacis tại Saigon [13], Viện Đại
học Cửu Long [14], Học viện
Tri Hành [15], Viện Đại
học Canh Tân [16],Viện Đại học Kỹ thuật Đồng
Nai tại tỉnh Bình Dương [17], Đại học
Sư phạm Thành Nhân, Học viện Lasan, Học viện
Minh Trí [18].
II. Đào tạo đại học
tại miền Nam Việt Nam qua tài liệu lưu trữ của Viêt Nam Cộng Hòa (VNCH)
Việc
chuyển giao quyền quản trị đại học từ người Pháp sang người Việt đánh dấu một
khúc quanh quan trọng trên đường phát triển đại học Việt Nam. Từ đó đại học được
thay đổi để mang đặc tính Việt Nam. Nhằm đạt mục đích này các nhà giáo dục miền
Nam Việt Nam lúc bấy giờ phải đối diện với hai vấn đề cấp bách là: chuyển từ
Pháp ngữ sang Việt ngữ hệ thống giáo dục Việt Nam và thành lập một chương trình
học có tính chất Việt Nam.
Vì
ảnh hưởng văn hoá Pháp còn quá nặng, việc chuyển ngữ ở đại học tại miền Nam Việt
Nam tiến hành chậm và gặp khó khăn. “Việt ngữ được dùng lần đầu tiên từ năm
1951 tại các lớp đệ thất (lớp 6 Trung học cơ sở hiện nay). Năm 1952 đại học Văn
Khoa đã có ý định dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ. Năm 1956 chương trình học Việt
ngữ đầu tiên được thực hiện tại Đại học Luật khoa. Năm 1957, Việt ngữ được dùng
làm chuyển ngữ tại Viện Đại học Huế. Tuy nhiên, tại Sài Gòn, Pháp ngữ vẫn còn
được các giáo sư đại học dùng để giảng dạy cho đến năm 1966” [19].
Trong
văn bản của Hội đồng Văn hóa Giáo dục [20]
có ghi “Triết lý giáo dục của miền nam VN giai đoạn 1954 - 1975 là Nhân Bản,
Dân tộc, Khai phóng.
-
Nhân bản: lấy con người làm cứu cánh, tôn trọng những giá trị thiêng liêng của
con người, chủ trương sự phát triển quân bình và toàn diện của mỗi người và mọi
người.
-
Dân tộc: biểu hiện và phát huy tinh thần dân tộc, các truyền thồng tốt đẹp và
các giá trị đặc thù của dân tộc nhằm bảo đảm sự đoàn kết trường tồn của dân tộc,
cũng như sự phát triển điều hòa và toàn diện của quốc gia.
-
Khai phóng: luôn hướng tới sự tiến bộ, tôn trọng tinh thần khoa học, rộng rãi
đón nhận những tinh hoa văn hóa thế giới, tích cực đóng góp vào sự cảm thông và
hợp tác của các dân tộc cũng như sự thăng tiến nhân loại trong hòa bình và tự
do”.
Cũng
trong văn bản này, xác định chính sách giáo dục là đại chúng hóa giáo dục và thực
dụng hóa giáo dục, đề nghị một ngân khoản giáo dục tối thiểu là 20% ngân sách
quốc gia.
Trong
khi đó, bài phỏng vấn của Việt Tấn Xã vào ngày 28/8/1974 [21]
với Viện trưởng viện đại học Bách Khoa Thủ Đức cho rằng: “Tiền sinh viên đóng
cho trường đều đi vào ngân khố. Chúng tôi không thể tự tiện lấy ra rồi tự tiện
tổ chức này nọ. Hiện chỉ có 6% tổng số ngân sách quốc gia dành cho giáo dục nên
chúng tôi không thể nào phát triển mau lẹ như ý muốn”.
Như thế, về tài chánh và phương tiện giáo dục là ngân sách chi cho
giáo dục quá ít (6% ngân sách quốc gia) và cơ sở vật chất trường đại học quá
nhỏ, thiếu phương tiện giảng dạy cần thiết của một nền giáo dục hiện đại nên
ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong thời gian
này.
Các Viện đại học miền Nam Việt Nam
trước 1975 hoạt động trong qui định của hiến pháp năm 1956 và hiến pháp ngày
1/04/1967. Hai hiến pháp của chánh quyền miền Nam Việt Nam đều xác định: công
nhận quyền tự do giáo dục, giáo dục cơ bản cưỡng bách và miễn phí, giáo dục Đại
học được tự trị, phụ huynh có quyền chọn trường cho con em, các đoàn thể và tư
nhân có quyền mở trường theo điều kiện luật định.
Theo
phiếu trình v/v quy chế Đại học, ngày 18-12-1968 [22]
:
“Quy chế được Viện đại học Sài Gòn áp dụng từ
1954 đến 1968 là quy chế của Viện đại học Hà Nội cũ. Quy chế này được soạn thảo
theo các văn bản pháp lý: Hiệp định Pháp Việt ngày 8-3-1949, thoả ước văn hoá
ngày 30-12-1949, thoả ước ngày 30-05-1949”.
Điểm
nổi bật trong bản quy chế này là tính cách hỗn hợp Pháp Việt, viện trưởng do
Chính phủ Pháp chỉ định trong các giáo sư người Pháp với sự đồng ý của Chính phủ
Việt Nam và do Chính phủ Việt Nam bổ nhiệm trong thời hạn 3 năm. Phó Viện trưởng
do Chính phủ Việt Nam chỉ định và bổ nhiệm. Khoa trưởng và Phó khoa trưởng do Hội
đồng khoa bầu. Nhân viên giảng huấn có 6 hạng: giáo sư thực thụ (professeur
titulaire), giáo sư thạc sĩ (professeur agrégé), giáo sư uỷ nhiệm (professeur
sans chaire), giảng sư (chargé de cours), giảng viên (chargé d’enseignement) và
phụ khảo (chargé de travaux).
Như
vậy viện trưởng sẽ chỉ định một khoa trưởng hoặc giáo sư thay thế khi vắng mặt ở
Việt Nam, nhưng trong thực tế vào năm 1968 thì Tổng trưởng bộ Quốc gia Giáo dục
thường cử người xử lý thường vụ Viện đại học mỗi khi Viện trưởng vắng mặt.
Trong
báo cáo “Hiện trạng của Giáo dục và vấn đề căn
bản pháp lý” của Ủy ban soạn thảo Dự luật Giáo dục Đại học vào ngày
11-11-1972 [23],
đã ghi:
“Cho
đến nay, các viện Đại học Quốc gia hiện hữu vẫn áp dụng qui chế đại học cũ của
chính phủ Pháp để lại, gọi là “Qui chế đại học hỗn hợp”. Về phương diện quản trị
nhân viên đại học bị chi phối bởi “qui chế chung Công chức” ấn định bởi dụ số 9
ngày 14-07-1950, mặc dù sắc lệnh số 139-SL/Th.T./CV ngày 22-09-1972 có cải thiện
được đôi chút về quyền lợi cho nhân viên giảng huấn đại học…”.
Để
tiến đến việc ban hành sắc luật đại học, từ năm 1954 đến năm 1973, có tất cả 5
dự thảo về giáo dục đại học: Dự thảo của viện Đại học Sài Gòn, năm 1957, về qui
chế lương bổng giáo chức đại học; Dự thảo của viện Đại học Sài Gòn, năm 1969, về
qui chế tự trị của các viện đại học Quốc gia; Dự thảo của trường Đại học Luật
khoa Sài Gòn, năm 1969, về qui chế của các viện đại học Quốc gia; Dự thảo của bộ
luật Giáo dục năm 1970, về tổ chức các viện đại học Quốc gia và nền tự trị của
đại học; Dự thảo luật của Hạ Nghị Viện 1970 về qui chế của các Viện đại học Quốc
gia [24].
Từ
những dự thảo luật này vào tháng 3 năm 1973, Tổng Thống VNCH ban hành “Qui định
chế độ Giáo dục đại học Quốc Gia”, trong đó xác định: Giáo dục Đại học đặt dưới
sự chỉ đạo của Hội đồng Quốc gia phát triển Giáo dục Đại học. Thành phần Hội đồng
Quốc gia phát triển Giáo dục Đại học được ấn định: Thủ tướng (Chủ tịch),Tổng
trưởng Bộ Giáo dục (Tổng thư ký), và 9 hội viên là: Tổng trưởng bộ Kế hoạch và
Phát triển Quốc gia, Tổng trưởng bộ Tài Chánh, Chủ tịch Ủy ban Văn hóa Giáo dục
&Thanh Niên Thượng Nghị Viện, Chủ tịch Ủy ban Văn hóa Giáo dục & Thanh
niên Hạ Nghị Viện, đại diện Hội đồng Văn hoá Giáo dục, đại diện Hội đồng Kinh tế
Xã hội, một Viện trưởng đại diện Viện đại học công, một Viện trưởng đại diện Viện
đại học Cộng đồng, một Viện trưởng đại diện Viện đại học tư.
Hội đồng này có nhiệm vụ: hoạch định chính sách phát triển
giáo dục đại học và ấn định sự tài trợ hàng năm cho các viện đại học. Như thế Hội
đồng Quốc gia phát triển Giáo dục Đại học không có trách nhiệm trong việc tuyển
sinh, chương trình đào tạo, tuyển dụng nhân sự của các viện đại học.Tuy nhiên,
từ tháng 3 năm 1973 đến tháng 4 năm 1975 vì tình hình chính trị và quân sự tại
miền Nam Việt Nam không ổn định nên chưa có những qui định cụ thể hơn về hội đồng
này.
Về phân cấp bổ nhiệm các cấp quản lý [25]:
- Tổng Thống bổ nhiệm Viện trưởng các viện đại học công.
- Tổng trưởng bộ Giáo dục bổ nhiệm các khoa trưởng các đại học
theo đề nghị của Viện trưởng
- Các trường đại học và các trung tâm cơ hữu của viện sẽ được
thiết lập bằng sắc lệnh của Thủ tướng.
- Các ngành chuyên khoa thuộc các trường đại học được thiết lập
bằng nghị định của Tổng trưởng bộ Giáo dục.
Theo “Qui định chế độ Giáo dục đại học quốc gia” nói trên, Tự
trị đại học được quy định vào việc quản trị giáo dục đại học, về phương diện tổ
chức, điều hành, tài chánh, học vụ và nhân viên, trong phạm vi luật pháp quốc
gia. Mỗi viện đại học hay cơ sở giáo dục công lập tương đương có tư cách pháp
nhân, và đặt dưới sự quản trị của một Hội đồng Quản trị Đại học có nhiệm vụ: ấn
định chương trình phát triển, lệ phí và học phí, tìm và thu nhận các nguồn tài
nguyên, kiểm soát việc quản trị tài sản, dự thảo ngân sách và kiểm soát việc
thi hành, ban hành quy chế và nội quy của
viện đại học, đề nghị bổ nhiệm các chức vụ Phó Viện trưởng, Phụ tá Viện trưởng
và Khoa trưởng.
Như thế, hệ thống đào tạo đại học ở miền Nam Việt Nam trong giai
đoạn 1954-1975, được tự trị về học vụ chuyên môn. Ngân sách của đại học công
lập thuộc ngân sách Bộ Giáo dục do Quốc hội duyệt hàng năm; nhân viên và giáo
sư đại học trực thuộc Tổng ủy Công vụ.
Năm 1957, theo một nghị định của Tổng Thống VNCH [26]
về việc thành lập một trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ thuộc quyền của bộ Quốc
gia giáo dục, có một lớp dự bị để thi vào năm I trường này, chỉ đào tạo 3 năm,
nếu trường mở thêm năm thứ tư thì nhóm sinh viên này sẽ được chứng nhận là tốt
nghiệp trường Quốc gia Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ, do một giám đốc (được bộ Quốc
gia giáo dục bổ nhiệm) ký. Những sinh viên tốt nghiệp sau 4 năm, được cấp bằng
“Kỹ sư Công nghệ” do bộ trưởng bộ QGGD ký, những sinh viên không đủ điều kiện để
cấp văn bằng sẽ được cấp “Chứng chỉ cựu sinh viên trường Quốc gia Kỹ sư Công
nghệ” do Giám đốc trường ký. Như thế đại học này có hai loại văn bằng khi ra
trường.
Về việc ghi danh học tại các đại học thuộc viện đại học Sài
Gòn [27]do
tổng trưởng bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên ký, đã qui định:
- Mỗi niên khóa, Khoa trưởng các đại học thành viên sẽ ấn định
số sinh viên ghi danh vào năm dự bị tùy theo khả năng thu nhận của trường.
- Thí sinh ghi danh phải hội các điều kiện: đậu Tú tài II ban
A hoặc B, Tú tài Kỹ thuật, các văn bằng ngoại quốc được công nhận tương đương.
- Điểm trung bình của hai môn liên hệ quan trọng nhất trong kỳ
thi Tú tài II phải đủ cao (tối thiểu 10/20) để chứng tỏ khả năng của sinh viên
phù hợp với chứng chỉ liên hệ (thí dụ điểm trung bình 2 môn Lý Hóa, Vạn vật cho
chứng chỉ Lý Hóa, Vạn vật; điểm trung bình 2 môn Toán và Lý Hóa cho chứng chỉ
Toán Lý Hóa).
- Việc ghi danh thiệt thọ các sinh viên sẽ được xét theo thứ
tự ưu tiên về điểm trung bình hai môn quan trọng liên hệ trong kỳ thi Tú tài
II.
- Đối với các sinh viên sắc tộc thiểu số, cựu quân nhân, quân
nhân tại ngũ và cô nhi tử sĩ được đặc biệt cứu xét trong tinh thần nâng đỡ.
- Sinh viên chỉ được ghi danh học chứng chỉ dự bị tối đa là 2
năm. Chỉ được ghi danh tạm một chứng chỉ dự bị.
Viện đại học Bách khoa Thủ Đức chỉ chấp nhận
đơn đăng ký dự tuyển vào trường thí sinh phải đậu hạng bình thứ (nghĩa là tổng
số điểm các môn thi chia cho tổng hệ số phải trên 7 điểm). Vào năm 1974, tổng số
học sinh đậu tú tài hạng bình thứ trên toàn miền Nam khoảng 300 - 400 người.
Sau đó qua một đợt thi tuyển viện đại học Bách khoa Thủ Đức chọn 40 người (!).
Viện được tự do tuyển sinh theo cách của viện, Bộ Giáo dục không có ý kiến.
Các
đại học Y - Dược thuộc Viện Đại học Sài Gòn chỉ nhận thí sinh ghi danh sau khi
đã có chứng chỉ dự bị Hóa Sinh (SPC) của Đại học Khoa học. Như thế, việc được
có một chỗ ngồi trong các đại học thời VNCH cũng khá khó khăn. Một số đại học
cho ghi danh (thông thường là các khoa Khoa học Xã hội), nhưng trong quá trình
bốn năm học đại học thì bị sàng lọc rất kỹ, số sinh viên còn lại trong năm thứ
hai chỉ khoảng 20% và khi tốt nghiệp đôi khi chỉ có khoảng 10% trên số sinh
viên đã ghi danh học năm dự bị. Riêng các đại học về kỹ thuật, y dược đều phải
qua một kỳ thi tuyển rất gắt gao.
Trong văn bản đề cập đến “Phương sách phát triển giáo dục của Nha
kế hoạch và pháp chế học vụ” vào tháng 8/1971 [28] có
đưa ra những khuyết điểm của nền giáo dục VNCH thời đó là: “tổng số sinh viên
đại học, cao đẳng, kỹ thuật và chuyên nghiệp đã gia tăng, trong khoảng 1960 - 1970
từ 13424 lên 47.021 tức 250 %. Tuy nhiên tỉ số sinh viên trên dân số chỉ chiếm
khoảng 0,2%, trung bình trong 1000 người dân có 2 người được vào đại học hoặc
cao đẳng. Số sinh viên kỹ thuật mặc dù phát triển theo tỉ lệ 146% trong 10 năm
nhưng chỉ chiếm 2,3% trong tổng số sinh viên. Số sinh viên tốt nghiệp hàng năm,
số chuyên viên, số cán bộ tốt nghiệp trung cấp không đủ đáp ứng nhu cầu phát
triển quốc gia theo chiều hướng khoa học kỹ thuật. Số giáo sư đại học, cao đẳng
dù đã phát triển đến 112% nhưng vẫn không đủ đáp ứng phần giảng dạy ở cấp bậc
đại học.”
Giáo
dục đại học miền Nam trong giai đoạn này phát triển rất mạnh, từ 200 sinh viên
năm 1946 đến năm 1974 đã lên hơn 60.000 sinh viên. Nhà cầm quyền miền Nam Việt
Nam (giai đoạn 1954 - 1975) cũng có nhiều nỗ lực để phát triển về giáo dục
nhưng vì chiến tranh nên
ngân sách giáo dục ít, chính quyền không thể bao biện về giáo dục (toàn bộ ngân
sách nhà nước thời kỳ này đều đổ vào quốc phòng). Theo các tài liệu tại Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia II, những người chịu trách nhiệm về đào tạo giáo dục bậc đại
học đã đưa ra những báo cáo, những đề nghị, những tiêu chí rất hay về giáo dục
nhưng các giáo sư, sinh viên trong thời gian này luôn phập phồng lo sợ bị bắt
theo luật tổng động viên nên không an tâm nghiên cứu học thuật, do đó khó đạt
được tiêu chuẩn chất lượng đào tạo đại học đúng nghĩa.
Nhờ
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, những tài liệu viết về nền giáo dục đại học của
Việt Nam Cộng Hòa đã được lưu giữ đến ngày nay mà bài viết trên chỉ thể hiện
được một phần quá nhỏ. Những tập hồ sơ, những tờ giấy đánh máy ố màu, vàng ngà,
mỏng tanh, được sắp xếp theo trình tự thời gian, tựa đề, đã giúp cho những
người nghiên cứu dễ dàng hơn khi thực hiện các đề tài của họ. Để giữ được những
tài liệu lịch sử này, những người làm việc tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II đã
làm một công việc hết sức thầm lặng nhưng vô cùng ý nghĩa cùng với niềm tự hào
họ đang bảo quản một kho tài liệu nếu xếp theo một hàng ngang có thể tính bằng
hàng ngàn cây số tài liệu. Một phần bí mật của Việt Nam từ thời thuộc Pháp đến
bây giờ đang nằm trong kho lưu trữ này chờ các nhà nghiên cứu khám phá.
[1] Thực trạng về hoạt động của sinh viên và nền đại học Việt Nam,
tháng 10/1969, phông PTTVNCH, số29764, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[3] Sắc lệnh số
264-TT/SL thiết lập tại Thủ Đức Viện đại học Bách khoa Thủ Đức ký ngày
29/03/1973, phông PTTĐIICH, số 3985, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[4]
Sắc lệnh số 641-TT/SL của Tổng Thống VNCH, ký ngày
18/07/1974 v/v thiết lập tại thị xã Đà Nẵng một Viện Đại học Cộng đồng Quảng
Đà, phông PTTĐIICH, số 31338, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[5] Viện đại học Cộng đồng đầu tiên sẽ được thiết lập tại
Bến Tranh,VTX, 12/2, phông PTTĐIICH/3834, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II
[6] Ký sự quốc nội (1965), Việt Tấn Xã
(5310), 23/09, phông PTTĐIICH, số 3834, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[7] Viện đại học Vạn Hạnh khai giảng niên khoá 1972-1973
(1972),Việt Nam Thông Tấn Xã, ngày 15/11, phông PTTĐIICH, số 6579, Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia II.
[8] Nghị định số
3590/ GD/KHPC/HV ngày 22/12/1972 hợp thức hoá Viện đại học Minh Đức”, phông
PTTĐIICH, số 6579, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[9] Tài liệu về tổ chức Đại học Hòa Hảo,
phông PTTĐIICH, số 6172, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[10] Văn
thư số 1466/GDTN/PC ngày 8/3/1969 v/v xin mở đại học Dân Trí tại Long Xuyên,
phông PTTĐIICH, số 6579, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[11] Văn thư số 3931/GDTN/PC ngày 25/05/1970, v/v xin mở
viện đại học Bảo Lộc tại Sài Gòn, phông PTTĐIICH, số 6579, Trung tâm Lưu trữ Quốc
gia II.
[13] Giấy phép tạm số 3343/ GDTN/PC ngày 3/05/1972, v/v
cho mở Tư thục Học viện Phụ nữ Tư thục Cộng đồng Régina Pacis tại Sài Gòn,
phông PTTĐIICH, số 3644, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[14] Giấy
phép tạm cho dời Viện đại học tư thục Cửu Long về số 1 bis đường Hoàng Diệu,
Phú Nhuận, phông PTTĐIICH, số 6579, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[15] Nghị
định số: 2715/VHGDTN/CTPC/PC2/NĐ7 ngày 29 tháng 11 năm 1974 sửa đổi điều 2/NĐ
2437-VHGDTN/KHPC/HV/NĐ ngày 22 tháng 10 năm 1973 hợp thức hoá Học viện Tri Hành,
phông PTTĐIICH, số 6579, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[16] V/V
xin thành lập Viện Đại học Tư thục Canh Tân; văn thư số 10689 VHGDTN/CTPC/PC2/7
ký ngày 29/11/1974, phông PTTĐIICH, số 6579, Trung tTâm Lưu trữ Quốc gia II.
[17]
Giấy phép tạm số 1578/VHGDTN/CTPC/PC2/7 ngày 04/02/1975, v/v mở viện Đại học kỹ
thuật Đồng Nai tại tỉnh Bình Dương, phông PTTĐIICH, số 6579, Trung tâm Lưu trữ
Quốc gia II.
[18] Đoàn Viết Hoạt
(1975), “Vai trò của Đại học, Tư tưởng (48).
[19] Chỉ nam Sinh
viên Đại học Sài Gòn, 1966, VĐHSG.
[20] Tường trình lý do của Hội đồng Văn Hóa Giáo dục,
PTTĐICH, số 3833, Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia II.
[21] Thắc mắc về việc thi vào viện đại học Bách khoa Thủ
Đức, VNTTX số 8551, 28/8/1974, phông PTTĐIICH/3834, Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia
II.
[22] Phiếu
trình của Tổng thư ký Phủ Tổng thống VNCH, số 317/PTT/TTK/LP ngày 18/12/1968,
phông PTTĐIICH/3855, Trung tâm Lưu trữ Quốc Gia II.
[23] Tường trình của uỷ ban soạn thảo dự luật Giáo dục Đại
học, ký ngày 11/11/1972, phông PTTg, số 31.125, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[24] Bài
thuyết trình về Dự luật Giáo dục Đại học của giáo sư Đổ Bá Khê, thứ trưởng Giáo
dục, phông PTTĐICH, số 3741, Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia II.
[25] Sắc lệnh số 264-TT/SL thiết lập tại Thủ Đức Viện đại
học Bách Khoa Thủ Đức, ký ngày 29/03/1973, phông PTTĐIICH, số 3985, Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia II.
[27] Nghị định số 2275/VHGDTN/KHPC/HV/NĐ ngày 25/9.1973 ấn
định việc tuyển chọn sinh viên ghi danh học tại Khoa học Đại học Saigon, phông
PTTĐIICH, số 3985, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
[28] Phương
sách phát triển giáo dục của Nha kế hoạch và pháp chế học vụ, vào tháng 8/1971, phông PTTĐIICH, số 3622, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia
II.